SKKN Xây dựng một số tình huống có vấn đề trong dạy học môn Công Nghệ 12 ở trường Trung học phổ thông

SKKN Xây dựng một số tình huống có vấn đề trong dạy học môn Công Nghệ 12 ở trường Trung học phổ thông

Trong những năm gần đây xu hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh đang là xu hướng dạy học hiện đại, đó chính là việc chuyển từ sự truyền đạt tri thức mà người thầy đóng vai trò chủ động, còn trò thụ động tiếp thu sang hướng dẫn người học chủ động tư duy để chiếm lĩnh tri thức. Môn Công nghệ phổ thông có đặc điểm nổi bật là tính ứng dụng và tính đa phương án nên việc vận dụng các tình huống có vấn đề vào dạy học là khá thuận lợi. Với phương pháp dạy học sử dụng tình huống có vấn đề, học sinh sẽ nâng cao tính tích cực sáng tạo, chủ động tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và phát triển năng lực trí tuệ.

Thực trạng dạy học ở phổ thông hiện nay có những bước đổi mới nhằm khắc phục một số mặt hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống là mang nặng tính thông báo, tái hiện. Mặt khác, sau nhiều năm thí điểm thì toàn bộ chương trình và sách giáo khoa mới được thực hiện ở cả 12 lớp trên cả nước, đồng thời cơ sở vật chất phục vụ dạy học bắt đầu được cải thiện, trang thiết bị đã được bổ sung.

Là một giáo viên trẻ, để nhanh chóng hoà nhập vào xu hướng đổi mới hiện nay và để trang bị thêm kiến thức cũng như kinh nghiệm cho mình, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm là “ Xây dựng một số tình huống có vấn đề trong dạy học môn Công Nghệ 12 ở trường Trung học phổ thông”.

 

doc 20 trang thuychi01 20043
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Xây dựng một số tình huống có vấn đề trong dạy học môn Công Nghệ 12 ở trường Trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây xu hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh đang là xu hướng dạy học hiện đại, đó chính là việc chuyển từ sự truyền đạt tri thức mà người thầy đóng vai trò chủ động, còn trò thụ động tiếp thu sang hướng dẫn người học chủ động tư duy để chiếm lĩnh tri thức. Môn Công nghệ phổ thông có đặc điểm nổi bật là tính ứng dụng và tính đa phương án nên việc vận dụng các tình huống có vấn đề vào dạy học là khá thuận lợi. Với phương pháp dạy học sử dụng tình huống có vấn đề, học sinh sẽ nâng cao tính tích cực sáng tạo, chủ động tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và phát triển năng lực trí tuệ.
Thực trạng dạy học ở phổ thông hiện nay có những bước đổi mới nhằm khắc phục một số mặt hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống là mang nặng tính thông báo, tái hiện. Mặt khác, sau nhiều năm thí điểm thì toàn bộ chương trình và sách giáo khoa mới được thực hiện ở cả 12 lớp trên cả nước, đồng thời cơ sở vật chất phục vụ dạy học bắt đầu được cải thiện, trang thiết bị đã được bổ sung.
Là một giáo viên trẻ, để nhanh chóng hoà nhập vào xu hướng đổi mới hiện nay và để trang bị thêm kiến thức cũng như kinh nghiệm cho mình, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm là “ Xây dựng một số tình huống có vấn đề trong dạy học môn Công Nghệ 12 ở trường Trung học phổ thông”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Vận dụng lí luận dạy học nêu vấn đề, nghiên cứu xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học môn Công nghệ nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Quá trình dạy học môn Công nghệ lớp 12 trung học phổ thông.
- Tình huống có vấn đề và phương pháp dạy học nêu vấn đề; phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu trên, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích lý luận.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Đề tài đã xây dựng được các tình huống có vấn đề trong các bài dạy. Đây là một trong những phương pháp dạy học tích cực.
- Đề tài xây dựng được các tình huống có tư duy logic. Tư duy thường bắt đầu từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ sự ngạc nhiên hay thắc mắc, sự mâu thuẫn. Tình huống có vấn đề như vậy sẽ có tác dụng lôi cuốn cá nhân vào quá trình tư duy. 
II. NỘI DUNG.
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Nguyên tắc xây dựng tình huống có vấn đề.
Các nguyên tắc xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học môn Công nghệ 12 được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc sau:
- Tình huống phải phù hợp mục tiêu và nội dung bài học (lĩnh hội kiến thức mới, kiểm định lý thuyết, ôn lại kiến thức cũ hay rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo,..). Đồng thời phải phù hợp với đặc điểm, nội dung từng bài học. Nghĩa là thông qua tình huống học sinh có thể nắm vững sâu sắc, điều chỉnh việc học tập và tích luỹ được các kinh nghiệm vào thực tiễn.
- Bản thân tình huống phải gợi một vấn đề mang tính điển hình, tính phổ biến, một yêu cầu hay một bài toán chứa đựng mâu thuẫn (giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa những điều đã biết và những cái cần tìm,) mà theo người học có thể đưa ra một phương án theo kiến thức đã học để giải quyết tình huống. Những phương án giải quyết này chưa phải là điều mà thầy cô muốn dạy. Muốn giải quyết được, người học phải có sự liên kết những kiến thức đã học với thực tiễn, kết hợp với sự gợi mở của giáo viên.
- Tình huống phải phù hợp với trình độ của học sinh, đồng thời gây được sự hấp dẫn, thu hút sự chú ý của học sinh. Đặc biệt phải để người học tự giác nhận thức được trách nhiệm của mình là giải quyết tình huống để đạt được nhiệm vụ học tập.
- Tình huống được xây dựng phải phù hợp với điều kiện có về cơ sở vật chất của nhà trường phổ thông [1].
2.1.2 Xây dựng một tình huống có vấn đề trong dạy học môn Công nghệ 12 như sau:
Bước 1: Nội dung tình huống.
Bước 2: Giải quyết tình huống.
Bước 3: Mở rộng tình huống.
Cụ thể từng bước:
Bước 1: Nội dung tình huống.
Giáo viên nêu tình huống có vấn đề bằng cách đặt tình huống dưới dạng nhiệm vụ hay yêu cầu nội dung bài học. Học sinh buộc phải suy nghĩ để giải quyết vấn đề đặt ra trong tình huống trên cơ sở những kiến thức đã học.
Mục đích và cơ sở xây dựng tình huống
Mục đích xây dựng tình huống là giúp học sinh nắm vững kiến thức, kích thích tư duy học sinh, giúp học sinh làm quen với việc phân tích kỹ thuật, lý giải các kết cấu kỹ thuật có cơ sở khoa học. Qua đó học sinh không chỉ nắm vững kiến thức mà còn phát triển tư duy và khả năng lập luận, diễn đạt vấn đề.
Cơ sở xây dựng tình huống: Từ những kiến thức học sinh đã biết mâu thuẫn với những kiến thức mới đặt ra trong bài học, trên cơ sở đó giáo viên có thể tạo ra tình huống mà trở ngại đưa ra vừa sức với học sinh, nhưng vẫn tạo cho học sinh hy vọng có thể giải quyết được vấn đề với sự nỗ lực cao nhất.
Bước 2: Giải quyết tình huống:
Trình tự kiến thức đưa ra phải lôgíc phù hợp với nội dung bài học và giải quyết được tình huống một cách triệt để. Kiến thức các môn học liên quan được đưa vào sử dụng trong quá trình giải quyết tình huống phải đảm bảo nằm trong chương trình mà học sinh được học, được biết.
Bước 3: Mở rộng tình huống:
Mỗi tình huống được xây dựng thường điển hình cho một họ tình huống, nên giải quyết tình huống thường liên hệ với các hiện tượng, sự việc tương ứng giúp học sinh có điều kiện vận dụng ngay kiến thức vừa được tìm kiếm. Có thể dùng các tình huống phụ bổ trợ dưới hình thức câu hỏi hoặc bài tập về nhà yêu cầu học sinh vận dụng quy trình vừa được áp dụng để giải quyết tình huống chính để tìm ra lời giải [5].
2.1.3. Những khái niệm cơ bản về dạy học nêu vấn đề.
Phân tích kinh nghiệm những người thầy đi trước đã chỉ ra rằng từ sự đa dạng của tình huống có vấn đề trong thực tiễn có thể chia ra một số tình huống có tính chất điển hình sau đây:
- Loại tình huống thứ nhất: Tình huống nghịch lý. Đó là tình huống diễn ra không theo dự đoán thông thường của học sinh, chứa đựng ngay mâu thuẫn cần phải giải quyết; học sinh dễ dàng được sự khích lệ giải quyết vấn đề bởi sự nghịch lý.
Ví dụ: Một ô tô chuyển động với vận tốc nhanh trên đường. Khi đó bụi rác trên đường sẽ bay như thế nào? Học sinh mỗi người một dự đoán, có người quan sát được thì nói đúng, nhưng không thể giải thích được nguyên nhân, giáo viên khích lệ và học sinh ham muốn giải quyết ngay.
- Loại thứ hai: Tình huống bế tắc. Đó là học sinh gặp phải nhưng không thể giải quyết ngay được bằng những kiến thức và kỹ năng đã có.
- Loại thứ ba: Tình huống “tại sao”. Giáo viên dẫn dắt đưa học sinh vào một tình huống, học sinh quan sát phân tích, và tự đặt ra câu hỏi tại sao như vậy? Đó là sự hoài nghi hay nghi ngờ về điều vừa gặp.
- Loại tình huống thứ tư: Tình huống bác bỏ. Đó là loại tình huống mà học sinh đưa ra bác bỏ, học sinh lại đề xuất giải quyết mới,cho đến khi có được giả thuyết khoa học. Loại tình huống này có nhiều yếu tố gây nhiễu, phải tiến hành loại bỏ nhiều yếu tố gây nhiễu thì mới thu được giả thuyết khoa học.
- Loại thứ năm: Tình huống lựa chọn. Đó là loại tình huống chứa nhiều phương án giải quyết, đòi hỏi phải có sự phân tích khoa học để lựa chọn phương án giải quyết cho phù hợp.
- Loại thứ sáu: Tình huống mâu thuẫn giữa lý thuyết với thực hành. Khả năng lý thuyết hiện có không đủ để giải thích cho kết quả thực hành hay thực nghiệm.
Tóm lại có rất nhiều tình huống có vấn đề trong dạy học công nghệ, giáo viên cần thông hiểu những loại cơ bản đó để kết hợp với những phương pháp dạy học phù hợp khác nhằm giúp học sinh giải quyết được vấn đề [4].
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình trực tiếp giảng dạy môn Công nghệ 12 tôi thấy:
 Nội dung các bài trong sách giáo khoa được biên soạn ngắn gọn súc tích, cấu trúc nội dung tạo điều kiện cho thầy và trò đổi mới phương pháp dạy học. 
Một số tồn tại trong quá trình dạy học như: thiếu phương tiện dạy học, đặc biệt là thiếu cơ sở vật chất phục vụ dạy học các bài thực hành. Vì vậy tạo ra các tình huống có vấn đề bằng cách sử dụng các bài toán đơn giản để giúp học sinh vận dụng kiến thức trong các bài dạy học thực hành là hết sức cần thiết.
Học sinh tiếp thu kiến thức còn thuộc lòng, học vẹt chưa hiểu bản chất của vấn đề. Khi giáo viên tổ chức dạy học nêu vấn đề, trong khi giải quyết tình huống do giáo viên nêu ra, học sinh sẽ hiểu rõ hơn về lý thuyết đồng thời học được phương pháp và vận dụng để giải quyết hàng loạt các tình huống mà thực tế các em gặp phải.
Tôi cho rằng việc xây dựng các tình huống có vấn đề là một việc khả thi và có ý nghĩa trong việc nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học môn học, giúp học sinh lĩnh hội kiến thức thuận tiện, phát triển tư duy sáng tạo góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
2.3 Một số tình huống nêu vấn đề đã xây dựng trong bài dạy
2.3.1 Tình huống 1.
I. Nội dung tình huống:
Khi giải thích về dây kim loại dùng làm điện trở có 4 câu trả lời sau:
Dây kim loại dùng làm điện trở thường có tính chất:
A. Có tiết diện lớn. B. Có điện trở suất thấp.
C. Có chiều dài lớn. D. Có điện trở suất cao.
Hãy nhận xét sự đúng sai của các ý kiến trên.
II. Cơ sở xây dựng tình huống:
 Khi dạy về cấu tạo của điện trở giáo viên đưa ra tình huống giúp học sinh hiểu rõ cấu tạo của điện trở.
III. Hướng dẫn giải quyết tình huống.
Giáo viên dẫn dắt học sinh:
Cách tính điện trở: R= (ρ.l)/S
+Ta thấy điện trở suất của từng vật liệu khác nhau là khác nhau. Do đó, những vật liệu để làm điện trở thường có đặc điểm là điện trở suất lớn. Suy ra câu trả lời D là đúng. Câu B sai
+ Câu A sai vì điện trở có tiết diện lớn làm cho giá trị điện trở giảm.
+ Câu C sai vì dây kim loại có chiều dài lớn làm kích thước điện trở tăng cao.
2.3.2 Tình huống 2.
I. Nội dung tình huống:
 Làm thí nghiệm như sau:
Trường hợp 1: Mắc tụ điện nối tiếp với một bóng đèn và đặt vào nguồn điện một chiều với điện áp phù hợp, quan sát sự sáng của bóng đèn.
Trường hợp 2: Mắc tụ điện nối tiếp với một bóng đèn và đặt vào nguồn điện xoay chiều có điện áp phù hợp, quan sát sự sáng của bóng đèn?
Qua hai trường hợp trên, nêu lên tác dụng của tụ điện? 
II. Cơ sở xây dựng tình huống: Khi dạy về công dụng của tụ điện giáo viên đưa ra tình huống giúp học sinh hiểu rõ công dụng của tụ điện.
III. Hướng dẫn giải quyết tình huống
Giáo viên dẫn dắt học sinh:
+ TH1:Khi đấu tụ điện vào mạch điện một chiều, do chiều của điện áp một chiều không thay đổi theo chu kì, chỉ ở thời điểm đấu vào có dòng điện nạp nhưng thời gian rất ngắn, nạp điện xong sẽ không còn dòng điện chạy qua nữa, cho nên dòng điện một chiều không thể chạy qua tụ điện. Do đó đèn không sáng khi đóng khóa K.
+TH2: Khi đấu tụ điện vào nguồn xoay chiều nữa chu kỳ đầu tụ nạp điện, nữa chu kỳ sau tụ phóng điện. Do đó đèn sáng khi đóng khóa K.
Vậy công dụng của tụ điện là: Tụ điện có tác dụng ngăn cách dòng một chiều và cho dòng xoay chiều đi qua. 
2.3.3 Tình huống 3.
I. Nội dung tình huống: 
Giáo viên: Hãy so sánh những chiếc ti vi, máy tính trước kia và ngày nay?
Học sinh: Các thiết bị đó thu nhỏ thể tích, giảm nhẹ khối lượng và chất lượng ngày càng tăng cao.
Giáo viên: Không những nó càng thu nhỏ về thể tích, giảm khối lượng mà xu hướng hiện nay người ta còn tích hợp các thiết bị đó lại. Để nó có thể trở thành thiết bị đa chức năng. Vậy tại sao người ta có thể làm được điều đó?
Học sinh: ??
Giáo viên dẫn dắt: Ngày trước các thiết bị điện tử phải dùng đèn điện tử chân không có kích thước rất to, tỏa nhiệt nhiều và tốn điện. Ngày nay người ta đã thay thế bằng các linh kiện bán dẫn và IC. Vậy tại sao linh kiện bán dẫn và IC lại làm cho các thiết bị điện tử có độ tích hợp cao, giảm kích thước, trọng lượng. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu qua bài "Linh kiện bán dẫn và IC"
2.3.4 Tình huống 4.
I. Nội dung tình huống:
Quan sát hình vẽ mạch nguồn 1 chiều và cho biết:
a) Nếu tụ C1 hoặc C2 bị đánh thủng thì hiện tượng gì sẽ xảy ra hiện tượng gì?
b) Nếu có một trong các điôt bị đánh thủng hoặc mắc ngược chiều thì hiện tượng gì sẽ xảy ra?
c) Bộ nguồn một chiều đơn giản nhất gồm những khối nào? Tại sao? [3]
II. Cơ sở xây dựng tình huống: 
Khi dạy bài "Khái niệm về mạch điện chỉnh lưu - nguồn điện 1 chiều" giáo viên đưa ra hình vẽ mạch nguồn 1 chiều để học sinh củng cố bài học đồng thời liên hệ thực tế.
III. Hướng dẫn giải quyết tình huống
Để giải quyết tình huống này giáo viên hướng dẫn học sinh lưu ý một số vấn đề sau:
-Nếu tụ C1 hoặc C2 bị đánh thủng thì mạch điện sẽ bị ngắn mạch làm cháy biến áp nguồn.
- Nếu có một trong các điôt bị đánh thủng hoặc mắc ngược chiều thì Cuộn thứ cấp của biến áp nguồn bị ngắn mạch, làm cháy biến áp nguồn.
- Bộ nguồn một chiều đơn giản nhất gồm khối 1 và 2. Vì khối 1 có nhiệm vụ biến đổi điện xoay chiều điện áp cao thành điện xoay chiều điện áp theo yêu cầu của tải; khối 2 có nhiệm vụ biến đổi điện xoay chiều thành điện một chiều.
IV. Mở rộng tình huống: 
Khi cho mạch (trên hình vẽ) hoạt động, không thấy điện áp một chiều đầu ra. Em hãy dự đoán các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên?
2.3.5 Tình huống 5.
I. Nội dung tình huống: Tại sao trong mạch khuếch đại đảo dùng OA. Trong khi ta cần khuếch đại tín hiệu về mặt điện áp, người ta lại mắc thêm vào mạch điện hồi tiếp âm thông qua làm giảm hệ số khuếch đại của mạch?
II. Cơ sở xây dựng tình huống: 
Khi dạy bài " Mạch khuếch đại - Mạch tạo xung" học sinh được biết chức năng của mạch khuếch đại là khuếch đại tín hiệu về mặt điện áp. Trong mạch lại có hồi tiếp âm thông qua làm giảm hệ số khuếch đại. Như vậy kiến thức lĩnh hội trên lớp với thực tiễn lại tồn tại một “nghịch lý” cần giải đáp.
III. Hướng dẫn giải quyết tình huống:
 Giáo viên đặt các câu hỏi gợi mở: Hồi tiếp âm là gì? Tác dụng của hồi tiếp âm?
- Hồi tiếp âm là trích 1 phần tín hiệu ra gửi trở lại đầu vào để làm giảm bớt ảnh hưởng của ngõ vào.
Tác dụng của hồi tiếp âm:
+ Hồi tiếp âm làm giảm tác dụng của tín hiệu vào nên cũng làm giảm hệ số khuếch đại.
+ Vì làm giảm hệ số khuếch đại nên hồi tiếp âm làm tăng độ ổn định của mạch.
+ Hồi tiếp âm làm giảm tác dụng của ngõ vào nên đồng thời giảm tác dụng của nhiễu.
+ Hồi tiếp âm làm giảm độ méo dạng của mạch khuếch đại.
2.3.6 Tình huống 6.
I. Nội dung tình huống: 
Trong sơ đồ mạch báo hiệu và bảo vệ quá điện áp, khi cần thay đổi ngưỡng báo hiệu và bảo vệ từ 230 V xuống 220V ta tác động vào linh kiện điện tử nào trong mạch? Tại sao? [2]
II. Cơ sở xây dựng tình huống:
Khi dạy bài "Mạch điều khiển tín hiệu" giúp học sinh hiểu rõ hơn về nguyên tắc hoạt động của một mạch điều khiển trong thực tế giáo viên nêu ra tình huống trên.
III. Hướng dẫn giải quyết tình huống:
Giáo viên phân tích và dẫn dắt học sinh:
- Chức năng của các linh kiện điện tử trên hình vẽ. VR, R1 là điện trở điều chỉnh ngưỡng tác động khi quá áp. Vậy khi cần thay đổi ngưỡng báo hiệu và bảo vệ từ 230 V xuống 220V ta tác động vào biến trở VR.
- Hoạt động của mạch được giải thích như sau: Rơle K hút khi dẫn. dẫn khi điện áp từ VR vượt quá ngưỡng đánh thủng của điốt ổn áp . Việc đặt ngưỡng cho nhờ VR. Đầu biến trở nối tới càng xuống thấp ( gần về phía R1) thì điện áp trên càng thấp, lúc đó điện áp nguồn phải cao lên mới đủ ngưỡng đánh thủng . Ngược lại đầu nối tới càng lên cao (gần về phía ) thì điện áp càng cao, điện áp nguồn dù thấp hơn đã đủ ngưỡng đánh thủng . Vậy VR phải nâng lên phía trên.
2.3.7 Tình huống 7.
I. Nội dung tình huống: 
 Khi dạy bài "Mạch điều khiển tốc độ động cơ xoay chiều 1 pha". Giáo viên có thể đưa ra tình huống sau:
 Nêu các phương pháp điều khiển tốc độ động cơ điện xoay chiều một pha. Mạch điều khiển tốc độ động cơ điện xoay chiều 1 pha (điều khiển quạt) bằng triac là phương pháp nào trong các phương pháp trên? Tại sao? [3]
II. Giải quyết tình huống: 
Để giải quyết tình huống này giáo viên hướng dẫn học sinh nêu ra các vấn đề:
- Để điều khiển tốc độ động cơ điện xoay chiều 1 pha, có thể sử dụng các phương pháp sau:
+ Thay đổi số vòng dây của dây quấn stato.
+ Điều khiển điện áp đưa vào động cơ.
+ Điều khiển tần số nguồn điện đưa vào động cơ (khi đó điện áp cũng phải thay đổi).
Mạch điều khiển tốc độ động cơ điện xoay chiều 1 pha bằng triac là phương pháp điều khiển điện áp đưa vào động cơ. Bởi vì theo nguyên lí làm việc của mạch điện cho thấy: Khi đóng khóa K, nhờ tụ C, triac được dẫn; Nếu thay đổi giái trị của VR sẽ làm thay đổi khoảng thời gian dẫn điện của triac, do đó điện áp đưa vào động cơ thay đổi, làm thay đổi tốc độ của động cơ.
2.3.8 Tình huống 8.
I. Nội dung tình huống: 
Khi dạy bài "Máy thu thanh". Để tổng kết nội dung bài dạy. Giáo viên đưa ra câu hỏi:
1. Khi thu sóng của các đài phát khác nhau ta tác động vào khối nào của máy thu?
2. Nếu không có tụ, mạch tách sóng có lấy được tín hiệu âm tần không? Tại sao?
II. Giải quyết tình huống:
Giáo viên dẫn dắt học sinh:
- Khi thu sóng của các đài phát khác nhau ta tác động vào khối chọn sóng.
- Nếu không có tụ, mạch tách sóng không lấy được tín hiệu âm tần. Bởi vì nhờ vào đặc tính nạp và phóng của tụ tín hiệu cao tần sau khi qua tụ sẽ bị lọc bỏ các thành phần có tần số cao và giữ lại đường bao có tần số thấp là tín hiệu âm tần.
2.3.9 Tình huống 9.
I. Nội dung tình huống:
 Khi dạy về khối xử lí tín hiệu màu bài "Máy thu hình". Để giúp học sinh hiểu rõ cách tạo ra được màu tự nhiên trên truyền hình màu. Giáo viên đưa ra câu hỏi: 
1.Những màu nào được coi là màu cơ bản trong máy thu hình màu?
2.Làm thế nào để có được các màu tự nhiên trên truyền hình màu?
3. Vì sao mã hiệu của các đài truyền hình (VTV) chỉ hiển thị ba màu đỏ, lục, lam? [6]
II. Giải quyết tình huống:
Giáo viên dẫn dắt học sinh:
- Ba màu cơ bản trong máy thu hình là: Đỏ, lục lam
- Khi pha trộn 3 màu (đỏ, lục, lam) theo một tỉ lệ nào đó ta sẽ được các màu khác nhau trong tự nhiên.
- Nguyên lý trộn màu: Nếu đem 2 trong 3 màu cơ bản trộn với nhau có màu thứ ba. Nếu trộn cả 3 màu theo tỉ lệ nhất định sẽ tạo ra các màu trong tự nhiên.
Ví dụ: * Về trộn màu.
Đỏ + Lục = Vàng
Đỏ + Lam = Đỏ thẫm (mận chín)
Lam + Lục = Xanh Lơ
Đỏ + Lục + Lam = Trắng
- Mã hiệu của các đài truyền hình (VTV) chỉ hiển thị ba màu đỏ, lục, lam vì để các đài truyền hình kiểm tra được màu sắc của chương trình phát đi là chuẩn màu.
2.3.10 Tình huống 10.
I. Nội dung tình huống:
Giải bài toán sau: Một nguồn điện 230V cung cấp cho 1 phụ tải có công suất 1 KW ở cách xa 4 km. Để cho độ tổn hao điện áp trên đường truyền là 10V thì cần dây dẫn đồng cỡ bao nhiêu? [1] 
II. Cơ sở xây dựng tình huống: Khi dạy bài "Hệ thống điện quốc gia" giáo viên đưa ra bài toán để đặt vấn đề cho bài dạy.
III. Giải quyết tình huống:
Học Sinh: Độ sụt áp 10V nguồn điện áp tải là 220 V. Do đó dòng điện trong mạch: .
Đường kính dây dồng 
Giáo viên: Nếu tăng công suất tải lên 100KW giữ nguyên độ sụt áp 10V, phải dùng dây cỡ bao nhiêu?
Học sinh: Tiết diện dây đồng cũng tăng lên 100 lần bằng 6250mm2
Suy ra đường kính dây 
Giáo viên kết luận:Trong thực tế không có dây dẫn nào lớn như vậy. Như vậy yêu cầu kỹ thuật của bài toán đặt ra không thể giải quyết bằng cách tăng tiết diện dây dẫn. Nhưng trong thực tế người ta đã giải quyết được yêu cầu bài toán đặt ra. Vậy giải quyết bằng cách nào? Đó là nội dung bài học hôm nay.
2.3.11 Tình huống 11.
I. Nội dung tình huống: Trong phần cấu tạo của máy biến áp 3 pha. SGK chỉ nói đến cấu tạo của lõi thép máy biến áp được làm bằng các lá thép kĩ thuật điện ghép lại với nhau. Học sinh sẽ thắc mắc tại sao lõi thép không được đúc thành khối. Khi đó sản xuất sẽ nhanh hơn, năng suất cao hơn.
Giáo viên đưa ra câu hỏi: Giải thích tại sao lõi thép của máy biến áp không được đúc thành khối mà phải ghép lại từ nhiều lá thép kĩ thuật điện? Hai mặt lá thép được phủ sơn cách điện trước khi ghép lại với nhau nhằm mục đích?
II. Giải quyết tình huống:
Để hướng dẫn học sinh giải quyết tình huống giáo viên cần lưu ý các em một số vấn đề sau:
- Lõi thép của máy biến áp không được đúc thành khối mà phải ghép lại từ nhiều lá thép kĩ thuật điện để giảm tác hại của dòng điện Phu cô làm nóng máy.
- Hai mặt lá thép được phủ sơn cách điện trước khi g

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_xay_dung_mot_so_tinh_huong_co_van_de_trong_day_hoc_mon.doc