SKKN Vận dụng phương pháp dạy học tình huống cho học sinh THPT qua nhóm bài các phong cách ngôn ngữ

SKKN Vận dụng phương pháp dạy học tình huống cho học sinh THPT qua nhóm bài các phong cách ngôn ngữ

 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”

 Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, định hướng sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực người học. Tinh thần dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học chú trọng đổi mới các phương pháp, biện pháp dạy học, trong đó có phương pháp dạy học tình huống. “Học là việc chuẩn bị cho người học vào các tình huống của thực tiễn cuộc sống” (Robinson), bởi thế, việc học và lĩnh hội tri thức cần phải được gắn liền với các tình huống của cuộc sống và thực tiễn nghề nghiệp.

 

docx 24 trang thuychi01 7822
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng phương pháp dạy học tình huống cho học sinh THPT qua nhóm bài các phong cách ngôn ngữ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
SGK
Sách giáo khoa
CT
Chương trình
PPDH
Phương pháp dạy học
PCNN
Phong cách ngôn ngữ
PCDHTH
Phong cách dạy học tình huống
PPNN
Phương pháp ngôn ngữ
PPDHTN
Phương pháp dạy học thực nghiệm
PPTH
Phương pháp tình huống
THPT
Trung học phổ thông
THCS
Trung học cơ sở
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học” 
 Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, định hướng sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực người học. Tinh thần dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học chú trọng đổi mới các phương pháp, biện pháp dạy học, trong đó có phương pháp dạy học tình huống. “Học là việc chuẩn bị cho người học vào các tình huống của thực tiễn cuộc sống” (Robinson), bởi thế, việc học và lĩnh hội tri thức cần phải được gắn liền với các tình huống của cuộc sống và thực tiễn nghề nghiệp. 
Trên thực tế, con người bắt đầu suy nghĩ khi họ thấy xuất hiện nhu cầu hiểu biết một cái gì đó. Tư duy luôn luôn bắt đầu từ một vấn đề hoặc một câu hỏi, từ sự ngạc nhiên hay nỗi băn khoăn thắc mắc. Sự lôi cuốn cá nhân vào quá trình tư duy được xác định bởi tình huống thực tiễn xảy ra xung quanh họ. Vì vậy, dạy học bằng tình huống là một trong những phương pháp dạy học tích cực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Đây là phương pháp dạy học hữu hiệu nhằm phát triển tư duy, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; từ đó hình thành ở HS nhân cách của người lao động mới, tự chủ, sáng tạo, có khả năng giải quyết tốt các tình huống do cuộc sống đặt ra.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tình huống là “toàn thể những sự việc xảy ra tại một địa điểm, trong một thời gian cụ thể, buộc người ta phải suy nghĩ, hành động, đối phó, tìm cách giải quyết. Tình huống cũng có thể được hiểu là sự mô tả, trình bày một trường hợp trong thực tế nhằm đưa ra một vấn đề chưa được giải quyết và qua đó đòi hỏi người đọc (người nghe) phải giải quyết vấn đề đó”. Bản chất của phương pháp dạy học (PPDH) bằng tình huống là thông qua việc giải quyết những tình huống, người học có được khả năng thích ứng tốt nhất với môi trường xã hội đầy biến động. Đây cũng là mục tiêu của đổi mới PPDH hiện nay ở nhà trường phổ thông, bởi việc học tập các môn học cần gắn liền với thực tế cuộc sống, giải quyết những vấn đề trong cuộc sống, làm chủ bản thân. 
Trong chương trình (CT), sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn THPT, nhóm bài PCCN chiếm số lượng về nội dung, thời gian tương đối lớn trong tổng số tiết tiếng Việt. Có thể nói, nhóm bài PCNN đã khép lại toàn bộ chương trình tiếng Việt ở nhà trường phổ thông. Điều này có nghĩa, việc học tiếng Việt cần tiến tới chỗ giúp HS biết cách giao tiếp, tổ chức văn bản. Đã nói tới văn bản là không thể không nói tới phong cách, vì mỗi một văn bản bao giờ cũng gắn với một phong cách nhất định. Tất cả những nét phong phú và sâu sắc, thâm thuý và tinh tế, tất cả những khả năng biến hoá của tiếng Việt đều thể hiện trong phong cách và qua phong cách. Tất cả những vấn đề quan trọng như: giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chuẩn hoá ngôn ngữ, phát triển và nâng cao tiếng Việt văn hoá... đều phải được giải quyết trong sự gắn bó mật thiết với phong cách. Mọi sự non kém, thiếu sót về ngôn ngữ đều sẽ bộc lộ khi sử dụng các phong cách chức năng ngôn ngữ. Mặt khác, các phong cách chức năng ngôn ngữ bao giờ cũng được thể hiện trong những tình huống nhất định. Chỉ trong tình huống ấy, người viết mới lựa chọn các đơn vị ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) để biểu đạt nội dung ngữ nghĩa, phù hợp với mục đích giao tiếp, với những ngữ cảnh nhất định. 
Trong CT, SGK Ngữ văn THPT, HS được tiếp xúc với 6 phong cách ngôn ngữ (PCNN): PCNN sinh hoạt, PCNN báo chí, PCNN chính luận, PCNN nghệ thuật; PCNN hành chính. Nói đến PCNN là nói đến toàn bộ những đặc điểm về cách thức diễn đạt, tạo thành kiểu diễn đạt ở một loại văn bản nhất định. Mỗi PCNN đều có những đặc điểm riêng về cách thức diễn đạt, về phạm vi ứng dụng. Vì vậy, việc dạy học nhóm bài các PCNN liên quan trực tiếp đến tình huống, PP dạy học tình huống.
Mặc dù đã có sự định hướng cụ thể về quan điểm, mục tiêu cụ thể trong SGK, SGV, các tài liệu tham khảo nhưng việc dạy học nhóm bài PCNN vẫn còn nhiều bất cập. GV còn nặng về việc cung cấp tri thức, chưa chú trọng thực sự đến việc rèn luyện, thực hành của HS. Điều quan trọng là việc sử dụng các phương pháp dạy học (PPDH) còn nhiều bất cập, PPDH qua các tình huống cụ thể chưa được coi trọng. Điều đó dẫn đến thực trạng: HS chưa phân biệt được sự khác nhau của PCNN, nhầm lẫn giữa các PCNN
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên: sự non yếu về kiến thức của GV, sự xem nhẹ phân môn tiếng Việt, đề thi tốt nghiệp và cao đẳng, đại học không chú trọng đến những tri thức này Trong tất cả các nguyên nhân trên, có một nguyên nhân cơ bản là GV chưa ý thức được tầm quan trọng của mục tiêu dạy học nhóm bài này cũng như chưa có sự phối hợp các PPDH, đặc biệt là PPDH tình huống – một trong những PPDH phù hợp, có tính khả thi đối với việc hình thành ở HS các PPNN. 
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học tình huống cho học sinh THPT qua nhóm bài các phong cách ngôn ngữ” làm đối tượng nghiên cứu, với mong muốn phát triển năng lực cho HS nói riêng và góp phần nâng cao chất lượng dạy Ngữ văn nói chung. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với mục đích vận dụng PPDH tính huống trong dạy học nhóm bài các PCNN cho HS THPT góp phần đổi mới PP dạy học Tiếng Việt nói riêng và chất lượng môn Ngữ văn nói chung. Đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục trong thời đại mới đồng thời phần nào giúp học sinh hoàn thiện nhân cách, phát triển năng lực cá nhân trong môi trường học tập.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: 
Vận dụng phương pháp dạy học tình huống cho học sinh THPT qua nhóm bài các phong cách ngôn ngữ.
Phạm vi nghiên cứu
 - Đề tài tập trung nghiên cứu sự vận dụng PPDH tình huống qua nhóm bài các PCNN cho HS THPT. Các vấn đề lý luận liên quan đến PPDH tình huống chỉ được nghiên cứu làm cơ sở cho quá trình vận dụng này. 
 - Đề tài chỉ thực nghiệm tại một số trường THPT trên địa bàn Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện mục tiêu nghiên cứu của đề tài chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
	*Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết 
	Tìm hiểu lịch sử vấn đề nghiên cứu, khai thác qua tài liệu và thành tựu của các nhà nghiên cứu các khía cạnh liên quan trực tiếp đến phạm vi đề tài làm cơ sở để tiến hành quá trình nghiên cứu tiếp theo của mình.
	* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra giáo dục: khảo sát mục tiêu, nội dung dạy học, chuẩn kiến thức, kĩ năng về tiếng Việt ở trường THPT, khảo sát thực trạng dạy và học các phong cách ngôn ngữ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích, tổng hợp kết quả khảo sát thực trạng và kết quả dạy học thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê, phân loại: thống kê, phân loại kết quả khảo sát thực trạng và kết quả dạy học thực nghiệm.
- Phương pháp so sánh: so sánh khả năng vận dụng của HS ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng qua bài kiểm tra cụ thể.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: tổ chức thiết kế giáo án thực nghiệm và dạy học thực nghiệm.
1.5. Những điểm đổi mới
	* Đóng góp về lí luận
-Đề tài cung cấp mang tính cơ sở, hệ thống về những cơ sở lý luận của vận dụng phương pháp dạy học tình huống cho học sinh THPT 
- Đề xuất làm phong phú thêm phương pháp, nguyên tắc và một số biện pháp dạy học nhóm bài các phong cách ngôn ngữ.
* Đóng góp về thực tiễn
- Cải thiện, nâng cao năng lực dạy học tiếng Việt cho GV THPT.
- Phát triển năng lực của HS, nâng cao chất lượng nói (viết) các vấn đề trong đời sống hoặc trong văn học cho HS.
	- Điều chỉnh thực trạng dạy học tiếng Việt theo hướng phát huy tính sáng tạo của HS.
-Trên cơ sở vận dụng cơ sở lý luận đưa ra biện pháp vận dụng phương pháp dạy học tình huống cho học sinh THPT qua nhóm bài các phong cách chức năng ngôn ngữ.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề 
2.1.1. Tình huống và phương pháp dạy học tình huống
Có nhiều định nghĩa khác nhau về tình huống. Theo Từ điển Tiếng Việt, “tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một địa điểm, trong một thời gian cụ thể, buộc người ta phải suy nghĩ, hành động, đối phó, tìm cách giải quyết”[28, tr.139].
2.1.2. Tình huống trong dạy học
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ thì tình huống dạy học là tình huống trong đó có sự ủy thác của người GV. Sự ủy thác này chính là quá trình người GV đưa ra những nội dung cần truyền thụ vào trong các sự kiện tình huống và cấu trúc các sự kiện tình huống sao cho phù hợp với logic sư phạm, để khi người học giải quyết nó sẽ đạt được mục tiêu dạy học”. 
* Yêu cầu của một tình huống dạy học
- Tình huống dạy học phải là mô hình đặc trưng cho một họ tình huống cùng loại mà việc giải quyết mô hình đặc trưng đó cho phép người học có được tri thức khái quát, hàm chứa tri thức của các tình huống trong cùng họ. Mô hình này đặc trưng tiêu biểu cho càng nhiều tình huống trong cùng họ càng tốt.
- Các sự kiện trong mỗi tình huống được cấu trúc sao cho người học có câu trả lời ngay từ đầu, nhưng câu trả lời đó mau chóng trở thành không đầy đủ hoặc không hiệu quả (thậm chí sai), khiến người học phải điều chỉnh hệ thống kiến thức của mình để giải đáp vấn đề đặt ra.
- Các vấn đề phải do chính bản thân tình huống gợi ra chứ không phải do GV gợi ý từ bên ngoài.
- Trong các tình huống phải chứa đựng các khó khăn hoặc trở ngại, mà để giải quyết thành công tình huống, người học phải vượt qua khó khăn, trở ngại đó. Một tình huống hàm chứa khó khăn là tình huống trong đó nếu vấn đề được giải quyết mà không đòi hỏi phải cấu trúc lại tri thức đã có. Một tình huống có trở ngại là tình huống mà khi giải quyết vấn đề người học buộc phải cấu trúc lại những quan điểm, tri thức, phương pháp đã có.
*Cấu trúc tình huống dạy học
Thông thường, một tình huống gồm 3 phần:
• Phần mở đầu: nêu vắn tắt bối cảnh của các sự kiện trong tình huống.
• Phần nội dung tình huống: mô tả diễn biến các sự kiện trong tình huống.
• Các vấn đề, yêu cầu, đề nghị cần giải quyết.
* PPDH tình huống
Phương pháp dạy học tình huống là một phương pháp đặc thù của dạy học giải quyết vấn đề theo tình huống, ở đó, các tình huống là đối tượng chính của quá trình dạy học. Như đã nói ở trên, trường hợp được nêu ra trong dạy học là những tình huống dạy học điển hình và quá trình người học nghiên cứu trường hợp cũng chính là quá trình hiểu và vận dụng tri thức. Theo Nguyễn Hữu Lam thì phương pháp tình huống là một kỹ thuật giảng dạy trong đó các thành tố chủ yếu của nghiên cứu tình huống được trình bày với những người học với các mục đích minh họa hoặc các kinh nghiệm giải quyết vấn đề.
*Mục đích của phương pháp dạy học tình huống
Trước đây, đa số các PPDH cũ kỹ, lạc hậu, chủ yếu mang tính chất “thầy truyền đạt, trò tiếp nhận, ghi nhớ”, “thầy đọc trò chép”  cùng với áp lực thi cử và lạc hậu trong cách kiểm tra đánh giá gần như không chú ý đến nhu cầu, hứng thú của người học thì trong hệ thống các PPDH quen thuộc từ những thập kỉ gần đây đã có nhiều PPDH tiến bộ nhằm phát huy tính tích cực nhận thức người học, coi trọng nhu cầu, hứng thú của người học, gắn kiến thức với thực tiễn cuộc sống. Trong các PPDH này, GV vẫn đóng vai trò chủ đạo, là người tổ chức, điều khiển các hoạt động dạy học nên nhiệm vụ và vai trò của người GV đa dạng hơn, phức tạp hơn.
Với đặc tính ưu việt của PPDHTH, bản chất của PPDHTH giúp cho HS phát triển năng lực. Dạy học bằng PPDHTH cũng tạo cơ hội cho người học phát triển toàn diện các kỹ năng như: 
- Kĩ năng phân tích để xác định vấn đề;
- Kĩ năng xây dựng và viết tình huống;
- Kĩ năng thu thập và xử lý thông tin;
- Kĩ năng giao tiếp và làm việc theo nhóm;
- Kĩ năng trình bày vấn đề/quan điểm trước tập thể;
- Kĩ năng tranh luận, đưa ra luận điểm và bảo vệ ý kiến;
- Năng lực tư duy phê phán, phản biện,;
- Kĩ năng so sánh, đánh giá các phương án;
- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề (của thực tiễn);
- Kĩ năng sáng tạo khi đưa ra các giải pháp cho vấn đề,....
Bên cạnh đó, trong hoạt động dạy học theo PPDHTH được thực hiện triệt để tư tưởng dựa vào năng lực của người học, kinh nghiệm đã có của họ để thực hiện phát triển năng lực người học. Cụ thể, mục tiêu dạy học cần phải được xử lí thành các năng lực cần thiết của HS trên cơ sở đó lựa chọn nội dung cần thiết giúp HS lĩnh hội tri thức. 
Khi áp dụng PPDHTH phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học. Dạy học tình huống góp phần nâng cao năng lực hợp tác, khả năng làm việc theo nhóm, kỹ năng phân tích, giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày, bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông. Đây là những kỹ năng quan trọng có thể giúp người học thành công trong tương lai. Dạy học bằng tình huống dễ dàng giúp người học nhận ra ưu điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh, đánh giá và hoàn thiện bản thân trong quá trình giải quyết tình huống đồng thời người học biết cách tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác để làm cho kiến thức của mình phong phú hơn.
Như vậy, kết hợp giữa PPDHTH với PPDH khác có vai trò quan trọng trong việc khắc ghi kiến thức, qua đó người học tự lực lĩnh hội tri thức mới và cách thức hành động mới, hình thành, phát triển năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn và nghề nghiệp. Mối quan hệ giữa PPDHTH với các PPDH khác là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, phải hướng dẫn việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của HS trong quá trình dạy học. Bản chất của PPDHTH đặt ra cho các em những nhiệm vụ tìm tòi những mâu thuẩn, những hiện tượng, những vấn đề, những mối liên hệ mớicần phát hiện. Trên cơ sở đó mà tăng cường hoạt động phân tích tổng hợp, so sánh trừu tượng hoá, khái quát hoácho các em trong quá trình dạy học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Đối với giáo viên
Trong dạy học nói chung và dạy phần PCNN ở THPT người GV cần phải biết kết hợp nhiều PPDH vào trong một tiết dạy. Đặc biệt biết sử dụng phương pháp phù hợp để nâng cao chất lượng tiết dạy, biết phát huy điểm tích cực của phương pháp vào bài dạy. Nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS không chỉ là định hướng mà còn đòi hỏi cần nghiên cứu xác định nguyên tắc, quy trình vận dụng của những phương pháp dạy học tích cực.
Tiến hành khảo sát cách vận dụng PPDHTN ở nhóm bài Các PCNN ở GV đang dạy học trên một số trường THCS thuộc địa bàn Thành phố Sầm Sơn, chúng tôi thu được một só kết quả sau:
(Đối tượng khảo sát: 8 GV THPT Nguyễn Thị Lợi, Mục đích của việc khảo sát tương ứng với kết quả ở trường). 
 + Khảo sát việc sử dụng các PPDH tích cực của GV trong quá trình dạy học phần PCNN ở trường phổ thông hiện nay.
 + Đánh giá mức độ, khả năng sử dụng phương pháp dạy học tình huống của GV trong quá trình dạy học.
+ Tìm hiểu những tác dụng, các hình thức sử dụng và khó khăn gặp phải của GV khi sử dụng PPDH tình huống trong bài dạy.
Kết quả khảo sát cho thấy, đa số GV sử dụng các PPDH “Phân tích ngôn ngữ” chiếm 80.0% GV thường xuyên sử dụng, sau đó là “Thông báo, giải thích; Phương pháp giao tiếp” được 24.0% GV sử dụng. Tuy nhiên, một số PPDH dạy học như “Phương pháp tình huống” chỉ có 16 GV sử dụng và 70.0% GV không vận dụng phương pháp này. Điều đó cho thấy, các PPDH phần PCNN chủ yếu vẫn là phương pháp đàm thoại, thuyết trình. Mặc dù vậy, việc thực hiện đổi mới PPDH qua các nhóm bài PCNN có một số chuyển biến bước đầu như:
+ Đối với bài giảng kiến thức mới: GV có quan tâm đặt vấn đề, dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh thông qua đàm thoại, gợi mở củng cố kiến thức bằng bài tập, chú trọng câu hỏi và hướng dẫn học sinh bằng tình huống gợi mở.
+ Đối với giờ luyện tập, dạy học sinh giải bài tập: học sinh được chuẩn bị trước ở nhà, một vài học sinh trình bày trên bảng cách giải, giáo viên hướng dẫn cả lớp nhận xét; GV tổng kết ưu khuyết điểm về lời giải và đưa ra lời giải mẫu với hình thức giờ dạy toán có sinh động hơn.
Song về bản chất các giờ dạy đó vẫn theo kiểu thầy truyền đạt trò tiếp nhận. Cách dạy đó chưa phản ánh được những đặc thù trong dạy học Ngữ văn, chưa phản ánh được các hoạt động văn hóa trong quá trình hình thành, đặc trưng, từ ngữ, cứ pháp, ngữ âm...cũng như vận dụng kiến thức trong thực tiễn.
Khi học, học sinh chủ yếu là nghe giảng, xem giáo viên làm mẫu, học sinh học thụ động, luôn luôn phụ thuộc vào giáo viên. Học sinh chưa được tự giác, tự do, tự khám phá kiến thức, nhiều học sinh sau khi học, hiểu kiến thức một cách máy móc, hình thức.
Có thể thấy, đa số GV có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, có tay nghề vững, có nhiều giờ dạy tốt. Song phải kết quả khảo sát cho thấy GV vẫn dạy theo phương pháp truyền thống, các PPDH được GV thường xuyên sử dụng là PPDH nêu vấn đề, vấn đáp, dạy học trực quan. Đây chủ yếu là những PPDH truyền thống. Còn những PPDH như dạy học tình huống, dạy học theo hợp đồng, dạy học dự án ít được GV sử dụng. Trong khi những PPDH này giữ vai trò rất quan trọng trong phát huy vai trò chủ thể tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của HS trong phát triển các năng lực đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại. 
Kết quả khảo sát cho thấy, đa phần GV đánh giá đây là phương pháp giúp HS “Rèn luyện cho HS thái độ học tập tích cực” có 45 phiếu lựa chọn (90%), và “Rèn luyện kĩ năng suy luận logic” có 40 phiếu đánh giá (80%). Đồng thời các ý kiến cũng xoay quanh về “Tăng cường tính thực tiễn của bài giảng và Tạo không khí học tập sinh động, tránh sự nhàm chán”. Đây là nhận định rất khả quan và đúng về PPDH tích cực này. Tuy nhiên, thực tế việc triển khai áp dụng PP này trong dạy học nói chung và nhóm bài PCCNNN còn nhiều bấp cập. Kết quả khảo sát phần dưới đây cho chúng tôi hiểu rõ hơn.
Kết quả khảo sát cho thấy, có rất nhiều khó khăn khi áp dụng PPDHTH trong các nhóm bài PCNN. Với 13 nhóm nguyên nhân chủ yếu được nêu trong phiếu khảo sát, kết quả cho thấy nguyên nhân cơ bản nhất là:
- Không có thời gian đầu tư cho tình huống là điều khó khăn nhất của GV khi thiết kế và sử dụng tình huống gắn với thực tiễn (61,22%).
- Khó chọn lọc tình huống phù hợp với nội dung nhóm bài (51,02%).
- Việc đưa ra tình huống và xử lý tình huống tốn nhiều thời gian (51,02%).
- GV khó điều khiển lớp học (47,98%).
 2.2.2. Đối với học sinh 
Hiện nay, việc học tập của HS về môn Ngữ văn mặc dù đã được HS đầu tư nhưng HS chưa biết cách tự học. Đa phần HS học trong tình trạng thụ động, máy móc tái hiện kiến thức, ít vận dụng linh hoạt vào các tình huống khác nhau do đó hiệu quả lĩnh hội còn thấp, làm giảm hiệu quả học tập bộ môn.
Qua trò chuyện, trao đổi với GV và HS thấy, nếu GV nào có biện pháp tổ chức hoạt động học tập cho HS bằng cách sử dụng phương tiện dạy học và các phương pháp tích cực hoá hoạt động học tập cho HS để tự nghiên cứu, thảo luận để xây dựng và hình thành kiến thức thì HS hứng thú học tập, tích cực phát biểu ý kiến. Còn những giờ GV dùng phương pháp thuyết trình, sử dụng phương tiện để minh hoạ kiến thức SGK được sử dụng như thông báo không có sự gia công giờ học kém sôi nổi và hiệu quả không cao.
Cũng qua điều tra cho thấy, trong giờ lên lớp các hoạt động tập trung chủ yếu vào GV, GV không hướng dẫn HS nghiên cứu để tự lĩnh hội, tự tìm lấy tri thức mà lại đóng vai trò là người lĩnh hội tri thức một cách thụ động. Cũng từ đây, ta thấy việc tự học của HS không 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_van_dung_phuong_phap_day_hoc_tinh_huong_cho_hoc_sinh_th.docx
  • docBÌA SÁNG KIẾN THANH.doc
  • docPHỤ LỤC SKKN.doc