SKKN Vai trò của GVCN trong Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua hoạt động trải nghiệm

SKKN Vai trò của GVCN trong Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua hoạt động trải nghiệm

 Trong Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong nhóm các môn học bắt buộc[6]. Đây là hoạt động giáo dục và dạy học được tổ chúc trong môi trường học tập bằng chính sự trải nghiệm của mỗi cá nhân. Học sinh được tham gia trực tiếp vào hoạt động để phát huy năng lực sáng tạo, thích ứng với bối cảnh. [2]Điều 2 của Luật giáo dục năm 2005, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên qua thực tế giảng dạy những năm qua tôi nhận thấy một thực trạng đáng báo động về học sinh THPT là các em có quá ít hiểu biết, sống không có chí hướng rõ ràng, lười lao động, ngại khó, ngại khổ. Một số em có biểu hiện giảm sút lòng tin, có lối sống lệch lạc dễ bị lôi kéo vào những hành vi phạm pháp.Điều đó là do ngoài những yếu tố môi trường xã hội, bản thân các em ra thì không thể phủ nhận một điều là hiện nay nội dung và các phương pháp giáo dục trong nhà trường còn coi trọng việc dạy chữ, chưa chú trọng đúng mức dạy làm người, nhất là việc giáo dục KNS cho học sinh. Trong quá trình dạy học dường như giáo viên chỉ quan tâm đến việc hình thành các kĩ năng mang tính kĩ thuật, gắn với chuyên môn, gắn với các môn học cụ thể. Trong khi đó, việc hình thành KNS cho HS qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một mục tiêu ẩn của quá trình dạy học. [3]Đây là điều người học cần có, cần sử dụng trong cuộc sống hàng ngày để các em trở thành công dân đích thực đóng góp cho sự nghiệp phát triển của xã hội hiện đại. Chính vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới. Xuất phát từ những lí do trên mà với cương vị và trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm lớp 12A5 tôi đã lên kế hoạch cùng học sinh trải nghiệm và tham quan lữ đoàn 368 tại thị xã Bỉm Sơn. Nhằm mục đích nhân rộng cách làm này tôi tiến hành chia sẻ kinh nghiệm của cá nhân thông qua sáng kiến kinh “Vai trò của GVCN trong Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua hoạt động trải nghiệm ”. Vì đây là đề tài khá mới tại một trường miền núi, gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện, sử dụng các phương pháp nghiên cứu và được thực hiện lần đầu tiên tại đơn vị. Nên việc nghiên cứu đề tài còn gặp nhiều khó khăn rất mong các đồng nghiệp đóng góp và giúp đỡ.

doc 25 trang thuychi01 22526
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vai trò của GVCN trong Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua hoạt động trải nghiệm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
 I. MỞ ĐẦU
1
 1.1. Lý do chọn đề tài 
1
 1.2. Mục đích nghiên cứu
1
 1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
 1.5. Tính mới của giải pháp so với giải pháp đã được áp dụng.
2
 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
7
 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
9
 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
12
 3.1. Kết luận
12
 3.2. Kiến nghị
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
15
Các thuật ngữ viết tắt: KNS- Kỹ năng sống
 THPT- Trung học phổ thông.
 GVCN - Giáo viên chủ nhiệm
 I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
 Trong Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong nhóm các môn học bắt buộc[6]. Đây là hoạt động giáo dục và dạy học được tổ chúc trong môi trường học tập bằng chính sự trải nghiệm của mỗi cá nhân. Học sinh được tham gia trực tiếp vào hoạt động để phát huy năng lực sáng tạo, thích ứng với bối cảnh. [2]Điều 2 của Luật giáo dục năm 2005, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên qua thực tế giảng dạy những năm qua tôi nhận thấy một thực trạng đáng báo động về học sinh THPT là các em có quá ít hiểu biết, sống không có chí hướng rõ ràng, lười lao động, ngại khó, ngại khổ. Một số em có biểu hiện giảm sút lòng tin, có lối sống lệch lạc dễ bị lôi kéo vào những hành vi phạm pháp.Điều đó là do ngoài những yếu tố môi trường xã hội, bản thân các em ra thì không thể phủ nhận một điều là hiện nay nội dung và các phương pháp giáo dục trong nhà trường còn coi trọng việc dạy chữ, chưa chú trọng đúng mức dạy làm người, nhất là việc giáo dục KNS cho học sinh. Trong quá trình dạy học dường như giáo viên chỉ quan tâm đến việc hình thành các kĩ năng mang tính kĩ thuật, gắn với chuyên môn, gắn với các môn học cụ thể. Trong khi đó, việc hình thành KNS cho HS qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một mục tiêu ẩn của quá trình dạy học. [3]Đây là điều người học cần có, cần sử dụng trong cuộc sống hàng ngày để các em trở thành công dân đích thực đóng góp cho sự nghiệp phát triển của xã hội hiện đại. Chính vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới.. Xuất phát từ những lí do trên mà với cương vị và trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm lớp 12A5 tôi đã lên kế hoạch cùng học sinh trải nghiệm và tham quan lữ đoàn 368 tại thị xã Bỉm Sơn. Nhằm mục đích nhân rộng cách làm này tôi tiến hành chia sẻ kinh nghiệm của cá nhân thông qua sáng kiến kinh “Vai trò của GVCN trong Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua hoạt động trải nghiệm ”. Vì đây là đề tài khá mới tại một trường miền núi, gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện, sử dụng các phương pháp nghiên cứu và được thực hiện lần đầu tiên tại đơn vị. Nên việc nghiên cứu đề tài còn gặp nhiều khó khăn rất mong các đồng nghiệp đóng góp và giúp đỡ.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Trải nghiệm cuộc sống quân đội.
- Rèn luyện tính kỷ luật, sự đoàn kết, tính đồng đội và tinh thần tập thể.
- Đề cao tinh thần vượt khó, lòng yêu nước và tự hào dân tộc. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh THPT
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu 
- Phương pháp quan sát 
- Phương pháp phỏng vấn
- Học sinh tự trải nghiệm là chính.
 Trên đây là một số phương pháp tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm này. Vì mỗi phương pháp đều có cái hay trong quá trình áp dụng thực hiện. Nếu chúng ta áp dụng đúng phương pháp trong từng thời điểm thích hợp thì hiệu quả đạt được rất tốt trong việc thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
1.5. Tính mới của giải pháp so với giải pháp đã được áp dụng.
- Các đề tài, sáng kiến kinh nghiệm trước đây đã nghiên cứu về giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học tại lớp. Sáng kiến này giáo dục kĩ năng sống qua hoạt động trải nghiệm tại lữ đoàn pháo binh 368 của các em học sinh. Chính các em là người tích hợp được các kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn.
- Sáng kiến có thể ứng dụng rộng rãi trong các trường THPT
- Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.
- Học sinh yêu trường, yêu lớp, yêu các hoạt động,chủ động tự tin bước vào cuộc sống sau khi rời ghế nhà trường.
-Sáng kiến phát huy rất tốt việc tích lũy kiến thức cho học sinh và đặc biêt chú trọng đến việc định hướng cho học sinh học tiếp một ngành nghề phù hợp sau khi tốt nghiệp. Với vốn kiến thức tích lũy được, học sinh có thể học tiếp ở trường dạy nghề hoặc học tiếp ở đại học.
 NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thể quan niệm là việc tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một cách tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn diện; giúp học sinh có thể sông an toàn, khỏe mạnh và tích cực , chủ động trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp[5].
*Kỹ năng sống là gì? [3]
 Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kỹ năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao.
 - Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), kỹ năng sống là năng lực cá nhânđể họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày, những kỹ năng đó gắn vói 4 trụ cột của giáo dục:
 Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm;
 Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việcvà nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm..;
 Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin;
 Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
 - Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức của cuộc sống hằng ngày.
 Tương đồng với quan niệm của WHO, còn có quan niệm kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trịvà những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
 - Theo UNICEFF, Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Kỹ năng sống được thể hiện ở những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến những hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
 Có thể thấy rằng kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Về bản chất, đó là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả Nói các khác kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. Kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng.
 Kỹ năng sống được hình thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. Kỹ năng sống mang tính cá nhân bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân. Mặt khác kỹ năng sống có tính xã hội là vì trong mỗi giai đoạn của sự phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có sự phù hợpvới những kỹ năng sống ấy. Ví dụ: kỹ năng sống của những người sống ở những vùng miền khác nhau có sự khác nhau
 Đặc điểm tâm sinh lý trẻ:
 - Đặc điểm về thể chất : Cơ thể là nền tảng vật chất của trí tuệ và tâm hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt. “Thân thể khoẻ mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại “tinh thần sáng suốt thì cơ thể có điều kiện phát triển”. Trong cuộc sống thực tế cho thấy những em có thể lực yếu thường hay ỷ lại, phụ thuộc nhiều vào những người thân trong gia đình những việc làm tự phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm, tự lập dần: nấu cơm, rửa bát, lau dọn nhà cửa,...
 Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thầy, cô giáo nên chúng thường bắt chước những cử chỉ tác phong của thầy, cô giáo mình. ở trường các em còn được tiếp xúc với bạn bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể cũng ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách và giáo dục kỹ năng sống cho các em. 
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua nhiều năm công tác ở trường THPT Thạch Thành III, tôi thấy thực tế của vấn đề này là:
1. Về giáo viên:
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động này nên làm mất sự hứng thú của học sinh.
-Công tác chủ nhiệm lớp ở trong trường đôi lúc chưa được quan tâm đúng lúc. Giáo viên mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau. Nhiều giáo viên vẫn coi nhẹ việc rèn luyện các kĩ năng sống cho học sinh.
2. Về học sinh:
- Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. Tinh thần tập thể chưa cao.
- Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau, không có tính kỉ luật.
- Kỹ năng giao tiếp hạn chế, hay nói tục, chửi bậy.
-Một số em thiếu niềm tin vào cuộc sống, thích hưởng thụ, thích sống ảo.
-Nhiều em chưa có định hướng nghề nghiệp, lựa chọn nghề theo trào lưu bạn bè.
3. Về Phụ huynh:
-Nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ năng thực hành xã hội là do phụ huynh không cho phép. Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức. 
-Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình.
-Phần lớn ở gia đình phụ huynh giao tiếp trong gia đình còn nhiều hạn chế, xưng hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
4. Về nhà trường.
Trường THPT Thạch Thành III là một trường miền núi nằm ở phía Bắc của huyện Thạch Thành, cách trung tâm huyện 12 km, trường có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Học sinh chủ yếu là dân tộc Mường, vùng 135. Trình độ dân trí, đời sống nhân dân trên địa bàn nhìn chung ở mức thấp và không đồng đều, sự giao lưu học hỏi về văn hóa giữa các vùng miền còn hạn chế. Tất cả những lí do trên ảnh hưởng không nhỏ tới công tác giáo dục toàn diện của nhà trường. Tuy nhiên vượt lên khó khăn thì từ khi thành lập đến nay trường luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhiều năm liền luôn là một trong top đầu của khu vực miền núi. Trong hoạt động chuyên môn dạy và học, Nhà trường thường xuyên nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, không ngừng đổi mới PPDH phù hợp với nội dung chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc "Giáo dục kỹ năng sống" cho học sinh. Nhà trường coi đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Chính vì thế ngay sau khi Bộ Giáo dục đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường tiến hành triển khai đồng bộ đến toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. [4 ]Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi thầy, cô giáo tâm huyết, trách nhiệm hơn trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Mỗi giáo viên trong nhà trường không chỉ nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, mà còn thường xuyên quan tâm đến đời sống, tâm tư tình cảm của học sinh. 
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường, ngoài việc lồng ghép vào các môn học hàng ngày, hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong những con đường giáo dục có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Chính vì thế ngoài việc xây dựng và hoàn thiện các quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường, bằng nhiều hình thức khác nhau nhà trường thường xuyên tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa ;tham gia các hoạt động dọn vệ sinh bảo vệ môi trường, tổ chức các hoạt động quyên góp ủng hộ bạn nghèo, bạn bị bệnh tật hiểm nghèo...Thông qua những hoạt động này, nhà trường muốn rèn luyện cho các em học sinh tính đoàn kết tập thể, khả năng làm việc theo nhóm. Đồng thời xây dựng tinh thần chia sẻ, ý thức trách nhiệm và tinh thần vượt khó vươn lên trong cuộc sống cho các em.
Chính nhờ việc chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà trường đã tạo tinh thần đoàn kết, gắn bó, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, học sinh nỗ lực tiếp thu bài giảng và tìm tòi những kiến thức liên quan đến bài học để liên hệ áp dụng vào thực tiễn, qua đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Các em cảm thấy rất vui và biết thêm nhiều kiến thức. Nhờ đó các em biết tự chăm sóc bản thân như là tự sắp xếp góc học tập thật ngăn nắp, tự giặt quần áo cho mình, vệ sinh cá nhân và môi trường sống.... Ngoài ra, em còn giúp bố mẹ nhiều việc nhà. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục xem học sinh là trung tâm, góp phần tạo điều kiện cho việc hoàn thiện nhân cách học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Với vai trò là một giáo viên chủ nhiệm đã đi theo các em gần hết chặn đường THPT tôi cũng thấy được sự cần thiết của kĩ năng sống là rất quan trọng. Hơn nữa là người mẹ, cũng có những đứa con rất là thiếu những kĩ năng cơ bản trong cuộc sống thực tế. Nên tôi luôn mong muốn làm được điều gì đó nhằm hỗ trợ tốt nhất cho các em học sinh của mình nên đã viết và thực hiện chuyên đề "Vai trò của GVCN Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh học sinh THPT qua hoạt động trải nghiệm".
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thời gian học tại trường còn ít thì quá trình thực hiện chuyên đề này là một việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các em say mê, hứng thú trong học tập, các em thấy mình mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong việc thể hiện những năng lực của bản thân . Khi trở lại lớp học thì ý thức xây dựng tập thể, tinh thần đoàn kết trong lớp được cải thiện rõ rệt. 
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
 * Xây dựng kế hoạch:
 Ngay từ đầu năm học tôi đã tham mưu với BGH nhà trường và đoàn trường kế hoạch giáo dục KNS thông qua hoạt động trải nghiệm cho các HS lớp tôi chủ nhiệm. Và ngay trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đặt vấn đề, triển khai nội dung đến các bậc phụ huynh. Và được sự ủng hộ, nhất trí 100% của tất cả các bên liên quan. Đây là phần quan trọng trong kế hoạch chuyên môn của nhà trường nên nhà trường ủy quyền, giao trách nhiệm trực tiếp cho tôi trước phụ huynh, học sinh và với đơn vị phối hợp.
 + Thời gian và môi trường giáo dục: Cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 ( chào mừng tháng thanh niên và đây là thời gian hợp lí để các em HS tham gia hoạt động trải nghiệm trong năm học trừ thời gian ôn thi)
Môi trường : Lữ đoàn pháo binh 368 Thị xã Bỉm Sơn ,Thanh Hóa ( địa điểm này cách trường 20km; môi trường quân đội lành mạnh, an toàn, nhiệt tình,.....và quan trọng là không tốn kém bất kỳ khoảng gì ngoài tiền ăn. Đây là điều quan trọng đối với một trường miền núi còn nhiều khó khăn như THPH Thạch Thành III)
Bản kế hoạch trải nghiệm và học kỹ năng sống tại lữ đoàn pháo binh 368
 Nơi đi: Trường THPT Thạch Thành 3. Huyện Thạch Thành
 Nơi đến: Lữ đoàn pháo binh 368 Thị xã Bỉm Sơn. 
Chuẩn bị:
 1.Số lượng thành viên: 38 học sinh lớp và GVCN.
- Hành trang chuẩn bị: Đồ dùng cá nhân cần thiết
- Phương tiện di chuyển: ô tô ( tiền quỹ lớp)
- Chi phí phát sinh: Học sinh tự chịu.
- Ăn trưa: 
 2. Mục tiêu của chuyến đi:
- Trải nghiệm thực tế cuộc sống trong quân đội.
- Rèn luyện tính kỉ luật, sự đoàn kết, tính đồng đội, tính tập thể 
- Thực hành kỹ năng sống cho HS.
- Đề cao tinh thần vượt khó, lòng yêu nướcvà sự tự hào dân tộc.
* GVCN liên hệ trước lữ đoàn để HS có thể:
- Thăm nhà truyền thống lữ đoàn.
- Thăm quan khu tăng gia sản xuất; thao trường luyện tập của Lữ đoàn
- Thăm quan nơi ăn, ở của người lính.
Chuẩn bị những tài liệu về lữ đoàn như lịch sử thành lập và những thành tựu đạt đã được của lữ đoàn pháo binh 368.
2. Hoạt động Trải nghiệm:
1. Nội dung hoạt động:
- Tập trung quân số và giới thiệu hoạt động của bộ đội trong ngày. HS nghe và ghi nhớ.
-Nghe hướng dẫn và trải nghiệm sắp xếp nội vụ; 
-Giới thiệu điều đội ngũ tay không. HS thực hành theo 
-Giới thiệu bắn súng tiểu liên AK. Trải nghiệm “Em làm chú bộ đội”.
- Nghỉ cơm trưa; HS ăn theo đúng tiêu chuẩn bữa ăn bộ đội.
-Thăm nhà truyền thống, nghe về lịch sử thành lập và phát triển của lữ đoàn .
-Tham quan khu tăng gia của bộ đội; trải nghiệm “Em làm nông dân”
- Tham quan khu kỹ thuật. HS quan sát những vũ khí hiện đại của QĐNDVN.
- Tham quan khu nội trú ( nơi ăn, ở,.. của chú bộ đội)
-Tham quan nơi thao trường luyện tập của người lính , xem duyệt đội hình , đội ngũ,
- Trở về hội trường giao lưu văn nghệ: hát những bài hát về người lính; đọc những bài thơ nói về bộ đội.
- Ra sân bóng giao lưu bóng đá nam, chơi những trò chơi lành mạnh.
-Kết thúc, lên xe về trường.
2. Tổ chức hoạt động
GV phân chia từng nhóm học sinh những nhiệm vụ cụ thể.
Nhóm 1: Tìm hiểu về lịch sử thành lập Lữ đoàn.
Nhóm 2: Những công việc thường nhật của người bộ đội theo ngày, tuần,...
Nhóm 3: Các quy định chung trong quân đội.
Nhóm 4: Công tác sắp xếp nội vụ trong quân đội.
HS chuẩn bị những tiết mục giao lưu cùng bộ đội: 
-Giao lưu văn nghệ: Những bài thơ, bài hát về người lính.
-Giao lưu thể thao: Bóng đá nam; Tổ chức các trò chơi lành mạnh cho HS
III. Những bài học rút ra khi trải nghiệm:
-Sau chuyến đi HS đã đạt được những kế quả gì?
-Đã đạt được những mục tiêu đề ra chưa?
*Sản phẩm sau chuyến đi :
-HS biết cách sắp xếp đồ dùng cá nhân của mình một cách nhanh nhất, gọn gàng và khoa học hơn.
-HS biết cách tự chăm sóc bản thân mình tốt hơn khi khi không có bố mẹ ở bên ( rèn luyện thể thao, làm việc nhà, học tập,.)
-HS biết sắp xếp thời gian biểu một ngày của mình khoa học và hợp lý hơn.
-Các em cũng biết cách tự điều chỉnh cái tôi của mình khi sống và học tập trong môi trường tập thể ( biết yêu thương,nhường nhịn, đoàn kết và giúp đỡ nhau trong cuộc sống,)
-Biết yêu thương gia đình của mình hơn, sống có trách nhiệm hơn.
-Các em cũng sẽ có ý chí phấn đấu hơn, có tinh thần vượt khó để vươn

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_vai_tro_cua_gvcn_trong_giao_duc_ky_nang_song_cho_hoc_si.doc