SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy môn Khoa học Lớp 4

SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy môn Khoa học Lớp 4

Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện là cơ sở khoa học thực tiễn của thời đại, là xu hướng tất yếu của xã hội, là vấn đề chung trong toàn ngành giáo dục. Năm học 2017-2018 vẫn được xác định là “Năm học tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lí giáo dục và xây dựng trư¬ờng học thân thiện, học sinh tích cực”[1]. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đ¬ã ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Đối với ngành giáo dục đào tạo công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung và phương pháp dạy học. Chính vì vậy, việc đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy là thực hiện chủ trương đổi mới trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học cũng nhằm thực hiện chủ trương “Cải tiến phương pháp dạy học”[3], phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Giáo viên chỉ là người tổ chức các hoạt động thông qua trực quan sinh động, học sinh tư duy và tự phát hiện tìm ra kiến thức mới của bài. Trong những năm học gần đây, tôi đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhiều môn học, đặc biệt là môn Khoa học. Đối với bộ môn Khoa học là môn học mang tính khoa học và thực hành cao. Nếu giáo viên không chuẩn bị kĩ đồ dùng dạy học thích hợp thì tiết học trở nên khô khan, cứng nhắc. Vì vậy, để tạo cho học sinh hứng thú trong học tập và yêu thích môn Khoa học đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học cho thích hợp với từng hoạt động của bài dạy. Ngày nay, với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tích cực học tập của học sinh thì các phương tiện dạy học hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình lĩnh hội tri thức mới. Xuất phát từ thực tế trên, khi dạy môn Khoa học 4 việc sử dụng trực quan: các hình ảnh, các thí nghiệm, bản biểu, là một phương tiện rất quan trọng. Nó không chỉ là phương tiện để giáo viên minh hoạ cho bài dạy mà còn là phương tiện chứa đựng kiến thức để học sinh khai thác, vì thế trong môn Khoa học không thể thiếu hình ảnh sinh động. Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết học môn Khoa học, ngoài chức năng trực quan, các hình ảnh ở Sách giáo khoa và tranh ảnh sưu tầm trên mạng Internet, hình ảnh động sẽ làm cho bài giảng hấp dẫn, tiết học sinh động, học sinh thích thú với những cái mới lạ. Từ đó làm cho học sinh hứng thú với việc tìm tòi và khám phá hơn nữa. Với hình thức dạy học này ta có đủ thời gian để giúp các em tiếp thu được kiến thức mới, củng cố và mở rộng kiến thức bằng các dạng bài tập trắc nghiệm, bài tập nối, trò chơi,. dễ dàng tạo tình huống sư phạm để thu hút sự chú ý của học sinh và do tính trực quan cao nên học sinh dễ vào cuộc. Mặt khác từ việc tổ chức thi đua giữa các nhóm qua từng hoạt động sẽ tạo không khí vui tươi hứng khởi, giúp các em nắm được kiến thức mới và củng cố lại kiến thức một cách nhẹ nhàng.

doc 14 trang thuychi01 51566
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy môn Khoa học Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện là cơ sở khoa học thực tiễn của thời đại, là xu hướng tất yếu của xã hội, là vấn đề chung trong toàn ngành giáo dục. Năm học 2017-2018 vẫn được xác định là “Năm học tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lí giáo dục và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”[1]. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Đối với ngành giáo dục đào tạo công nghệ thông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung và phương pháp dạy học. Chính vì vậy, việc đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy là thực hiện chủ trương đổi mới trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học cũng nhằm thực hiện chủ trương “Cải tiến phương pháp dạy học”[3], phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Giáo viên chỉ là người tổ chức các hoạt động thông qua trực quan sinh động, học sinh tư duy và tự phát hiện tìm ra kiến thức mới của bài. Trong những năm học gần đây, tôi đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhiều môn học, đặc biệt là môn Khoa học. Đối với bộ môn Khoa học là môn học mang tính khoa học và thực hành cao. Nếu giáo viên không chuẩn bị kĩ đồ dùng dạy học thích hợp thì tiết học trở nên khô khan, cứng nhắc. Vì vậy, để tạo cho học sinh hứng thú trong học tập và yêu thích môn Khoa học đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học cho thích hợp với từng hoạt động của bài dạy. Ngày nay, với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tích cực học tập của học sinh thì các phương tiện dạy học hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình lĩnh hội tri thức mới. Xuất phát từ thực tế trên, khi dạy môn Khoa học 4 việc sử dụng trực quan: các hình ảnh, các thí nghiệm, bản biểu,là một phương tiện rất quan trọng. Nó không chỉ là phương tiện để giáo viên minh hoạ cho bài dạy mà còn là phương tiện chứa đựng kiến thức để học sinh khai thác, vì thế trong môn Khoa học không thể thiếu hình ảnh sinh động. Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết học môn Khoa học, ngoài chức năng trực quan, các hình ảnh ở Sách giáo khoa và tranh ảnh sưu tầm trên mạng Internet, hình ảnh động sẽ làm cho bài giảng hấp dẫn, tiết học sinh động, học sinh thích thú với những cái mới lạ. Từ đó làm cho học sinh hứng thú với việc tìm tòi và khám phá hơn nữa. Với hình thức dạy học này ta có đủ thời gian để giúp các em tiếp thu được kiến thức mới, củng cố và mở rộng kiến thức bằng các dạng bài tập trắc nghiệm, bài tập nối, trò chơi,... dễ dàng tạo tình huống sư phạm để thu hút sự chú ý của học sinh và do tính trực quan cao nên học sinh dễ vào cuộc. Mặt khác từ việc tổ chức thi đua giữa các nhóm qua từng hoạt động sẽ tạo không khí vui tươi hứng khởi, giúp các em nắm được kiến thức mới và củng cố lại kiến thức một cách nhẹ nhàng.
 Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục nhất là nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, đặc biệt đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học. Từ yêu cầu đó, trong quá trình giảng dạy bản thân luôn suy nghĩ làm thế nào để cho học sinh tiếp cận các tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục theo xu thế hội nhập và phát triển giáo dục theo hướng hiện đại, tôi xin được trình bày vắn tắt một vài kinh nghiệm nhỏ với nội dung đề tài sau: “Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy môn Khoa học Lớp 4”
1.2. MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI:
Môn Khoa học là một môn học mang tính khoa học, thực hành và mang ứng dụng vào thực tế cao. Dạy môn khoa học mà không chuẩn bị kĩ đồ dùng, phương tiện dạy học thích hợp thì tiết học trở nên khô khan, cứng nhắc. Vì vậy, để tạo cho học sinh hứng thú và yêu thích môn khoa học, đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học cho thích hợp với từng hoạt động của bài dạy. Ngày nay việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thì các phương tiện dạy học ứng dụng CNTT (Công nghệ thông tin) vào bài dạy ngày trở nên quan trọng trong quá trình lĩnh hội kiến thức mới. Xuất phát từ thực tế trên khi dạy môn Khoa học không thể thiếu đồ dùng trực quan. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy được chú trọng. Qua quá trình giảng dạy ở lớp 4, 5 tôi nhận thấy rằng việc giảng dạy có sử dụng CNTT là cải thiện phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học, phát huy tính chủ động, tích cực học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức yếu tố rất cần thiết không thể thiếu trong quá trình giảng dạy, đặc biệt dạy học môn Khoa học. Vậy, việc dạy học có sử dụng hình ảnh trực quan là nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh và đạt hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập, nhất là thực hiện vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của giáo viên, tính chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Vì vậy việc Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học nói chung và vào môn khoa học nói riêng nhằm mục đích nâng cao chất lượng môn học. 
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Đề tài này nghiên cứu về vấn đề:
- Môn Khoa học lớp 4.
- Các bài giảng có “Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn khoa học ở lớp 4” .
- Phần mềm Microsoft PowerPoint và các phần mềm thiết kế bài giảng E-learning.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Phương pháp nghiên cứu là tác động trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu, vì vậy tôi chọn những phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích hệ thống.
- Phương pháp thu thập tài liệu
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ: 
Ở Tiểu học kênh hình là phương tiện trực quan, là nguồn tri thức quan trọng của học sinh. Nó có khả năng cung cấp thông tin một cách đầy đủ hơn mà kênh chữ trong sách giáo khoa chưa trình bày đến. Ứng dụng công nghệ thông tin để đưa hình ảnh lên màn hình bằng phần mềm Microsoft PowerPoint giúp cho giáo viên dễ dàng hơn trong việc hướng dẫn học sinh tiếp cận tri thức mới, tăng năng suất làm việc của giáo viên và học sinh, giảm tối đa kiểu giảng dạy mang tính thông báo một chiều. 
Và việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy thì máy tính được sử dụng trong việc cung cấp thông tin bằng hình ảnh, âm thanh, truyền thụ kiến thức, phát triển tư duy, hướng dẫn hoạt động, rèn luyện kĩ năng, kiểm tra, đánh giá..., tạo hứng thú cho học sinh trong học tập môn Khoa học nói riêng và trong học tập nói chung. 
Với kho tư liệu phong phú sẵn có trên Internet, giáo viên dễ dàng tìm cho mình nhiều hình ảnh đặc sắc minh họa cho bài học, sinh động hơn nữa là các đoạn phim mô tả. Những điều này sách giáo khoa khó có thể đáp ứng được. Bên cạnh đó, trong môn Khoa học cần rất nhiều tranh ảnh, mô hình động mà thư viện trường không thể cung cấp hết được. Giờ đây, giáo viên chỉ cần một cú nhấp chuột là có thể có được các loại hình ảnh, mô hình nào cũng có. Việc thiết kế mô hình động trên Powerpoint cũng được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng. 
 Trong bài dạy, những thông tin hiện lên màn hình với các hiệu ứng gây chú ý cũng là một cách trực quan rất hiệu quả thu hút sự chú ý tập trung của các em. Các em cũng dễ nhớ bài hơn. Bên cạnh đó, giáo viên cũng có thể tóm lược được những ý chính của bài hiện lên màn hình cho các em dễ nắm bài hơn, tiết kiệm được thời gian, công sức. Ở phần củng cố bài, chúng ta có thể thiết kế trò chơi ô chữ hoặc một số trò chơi trắc nghiệm với Violet sẽ giúp cho giờ học được kết thúc một cách thú vị, hấp dẫn mà lại khắc sâu vào tâm trí các em
Đối với giáo viên, việc soạn giảng một bài giảng điện tử là con đường giúp giáo viên chúng ta tiếp cận với công nghệ thông tin nhanh nhất. Thông qua việc soạn giảng, những kĩ năng sử dụng phần mềm Word, Excel, PowerPoint, violet được nhuần nhuyễn và ngày càng tiến bộ. Đồng thời kiến thức cuộc sống của mỗi người cũng sẽ được nâng cao. Giáo viên thấy yêu nghề hơn, sáng tạo hơn. Hơn nữa, theo tôi, việc dạy bằng bài giảng điện tử giáo viên đỡ vất vả hơn mà học sinh thích thú hơn nhất là với môn Khoa học.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Ứng dụng CNTT vào dạy môn Khoa học 4 là một biện pháp giúp học sinh tích cực, tự giác học tập, gây hứng thú, say mê với môn học, đồng thời khắc sâu thêm kiến thức. Chính vì thế, giáo viên phải nghiên cứu kỹ các tranh ảnh, đồ dùng dạy học cho từng tiết học đảm bảo rõ ràng, chính xác đẹp và sắp xếp theo thứ tự từng hoạt động. Trong từng bài, sách giáo khoa đều có tranh ảnh nhưng chưa đáp ứng được tính cập nhật thông tin thực tế, đồng thời ở các trung tâm sách thiết bị trường học lại không bán các tranh ảnh của từng bài. Chính vì thế, việc dạy môn Khoa học qua việc sử dụng bài giảng điện tử là do khả năng và nhiệt tình của giáo viên đối với giờ dạy.
 Thông thường, chúng ta thường tổ chức dạy học môn Khoa học bằng phương pháp truyền thống, cô giáo nêu kiến thức, học sinh quan sách tranh với thời lượng 1 tiết thì ta chỉ có thể cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa chứ mở rộng thêm là rất hạn chế (do không có đủ đồ dùng trực quan và các hình ảnh). Với hình thức này thì chỉ những em tiếp thu nhanh mới đủ khả năng tiếp nhận được, những học sinh còn lại hầu như không nắm bắt được gì.
 Trong 4 năm gần đây chúng ta có vận dụng một số phương pháp mới vào dạy học nói chung và môn Khoa học nói riêng đó là phương pháp Bàn tay nặn bột nhưng không phải bài nào cũng áp dụng được.
Việc giảng dạy môn Khoa học ở các trường chưa đạt yêu cầu về kiến thức và kĩ năng cơ bản trong quá trình học tập trên lớp thực tế còn nhiều hạn chế đó là: 
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học dù có nhiều cố gắng nhưng chưa đạt hiệu quả cao. ĐDDH được cấp phát hay tự làm cũng không đủ để làm phong phú nội dung bài học. Có những tranh ảnh được BGD cấp phát lúc đầu còn mới thì rất đẹp, nhưng trải qua thời gian đã bị mất tính thẩm mĩ. Quá trình thực hiện cho thấy chỉ mới dừng lại ở việc tổ chức học sinh quan sát và rút ra kết luận cho bài học dẫn đến học sinh có thói quen học thuộc bài, không hiểu rõ vấn đề nên việc áp dụng kiến thức Khoa học vào thực tế cuộc sống là rất khó khăn.
- Khi dạy giáo viên chỉ chú trọng chuyển tải nội dung mà chưa quan tâm đúng mức đến phần thực hành, liên hệ thực tế.
- Kiến thức các em học được không ghi nhớ lâu và hiểu sâu sắc để vận dụng vào cuộc sống.
- Việc soạn bài của giáo viên còn nặng về hình thức, sơ sài, chưa thể hiện được ý đồ mục tiêu của bài dạy, chưa có đủ thông tin tích cực đến với học sinh.
- Kiến thức hiểu biết của một số giáo viên còn hạn chế về tính khoa học, tính cập nhật thực tiễn.
Trong thực tế hiện nay, ở một số đơn vị trường học nói chung, trường tiểu học Quảng Nham 2 chúng tôi nói riêng, việc ứng dụng CNTT vào dạy học còn nhiều lúng túng cụ thể như soạn bài bằng giáo án điện tử hay sử dụng điện thoại thông minh hỗ trợ giảng dạy, chèn một đoạn âm thanh, mở một đường link... là rất vất vả, máy móc, nàm chiếu còn thiếu thốn, cả trường chỉ có một bộ. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã nhận thức rằng trong quá trình giảng dạy nói chung và môn Khoa học nói riêng muốn đạt hiệu quả và chất lượng cần phải sử dụng trực quan các hình ảnh và nhất là việc sử dụng CNTT vào giảng dạy thì học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu bài và nắm chắc được kiến thức trọng tâm, đồng thời kích thích được sự say mê, hứng thú, tìm tòi và khai thác những cái mới, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
Để nắm vững được từng đối tượng học sinh trong lớp, trước khi áp dụng đề tài, tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng tại lớp 4A trường Tiểu học Quảng Nham 2 do tôi chủ nhiệm và thu được kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
HT Tốt
Hoàn thành
Chưa HT
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4A
35
4
11,4
19
54,2
12
34,4
2.3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Tổ chức dạy học môn Khoa học lớp 4 thông qua việc sử dụng CNTT vào giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh, phù hợp theo nhóm đối tượng học sinh trong lớp để mọi đối tượng được tham gia học tập và tiếp thu bài tốt. Để vận dụng có hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, đặc biệt là môn Khoa học lớp 4 rất đa dạng và phong phú. Nếu được sắp xếp một cách hợp lí, chuyển tải nội dung tranh ảnh phù hợp, các trò chơi đơn giản nhưng lôi cuốn học sinh thì sẽ giải quyết nhiệm vụ học tập một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Nội dung học tập được đưa vào trò chơi làm trẻ tích cực hơn trong việc tiếp nhận nội dung học tập.
2.3.1 Cách tiến hành ứng dụng CNTT vào giảng dạy môn Khoa học lớp 4.
Để tiến hành việc ứng dụng CNTT thông qua việc áp dụng phần mềm Power point để soạn giáo án, sử dụng điện thoại thông minh vào dạy các môn học nói chung và môn Khoa học 4 nói riêng có kết quả cao, tôi đã tiến hành theo như sau:
2.3.1.1 Các bước soạn giáo án điện tử:
Khi soạn giáo án điện tử, GV cần các bước:
Bước 1: Tạo nhận thức cho bản thân về sử dụng CNTT thông qua việc sử dụng phần mềm PowerPoint vào giảng dạy nhằm mục đích gì và để làm gì? Bản thân thấy được tầm quan trọng trong việc Sử dụng CNTT vào giảng dạy là nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, tiếp cận nền giáo dục tiên tiến.
Bước 2: Bản thân phải tự học hỏi trên mạng, làm quen và soạn giáo án trên Word và trên PowerPoint, biết cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là phải khai thác triệt để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh, phim, Flash) đạt theo chuẩn kiến thức kĩ năng của từng tiết dạy.
Bước 3: Chọn bài hoặc phần bài dạy thích hợp để sử dụng phần mềm PowerPoint: Giáo viên cần xác định bài giảng đó có thích hợp để dạy có ứng dụng CNTT hay không, hoặc phần bài giảng nào cần sử dụng công nghệ thông tin để chuyển tải nội dung bài dạy và mang lại hiệu quả giáo dục cao. Nếu bài dạy nào sử dụng các phương pháp khác vẫn tốt thì không nên lạm dụng quá nhiều bài giảng điện tử.
Bước 4: Lập dàn ý cho bài dạy:
Giáo viên cần xác định bài dạy có mấy phần (mấy hoạt động). Mỗi phần cần chuyển tải những nội dung gì trọng tâm. Sử dụng âm thanh, hiệu ứng, hình ảnh, đoạn phim, trò chơi gì cho phù hợp và hiệu quả. 
Bước 5: Chọn nguồn tư liệu:
Khi soạn bài giảng điện tử, chắc chắn giáo viên nào cũng đều cần tư liệu minh họa, dẫn dắt hoặc làm phong phú bài giảng. Một nguồn tư liệu phong phú đó là tìm trên mạng Internet. Ngoài ra giáo viên có thể tìm từ nhiều nguồn khác như: sách báo, tạp chí rồi đưa vào bài dạy bằng cách scan, dùng máy ảnh kĩ thuật số chụp rồi copy vào máy, dùng phần mềm để cắt đoạn phim, ráp hình ảnh, chuyển đổi đuôi cho đoạn phim như phần mềm Total Video Converter.
2.3.1.2: Sử dụng điện thoại thông minh hỗ trợ quá trình giảng dạy
Hiện nay CNTT phát triển mạnh mẽ, các nhà sản xuất cho ra đời các sản phẩm điện tử đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người trong đó điện thoại thông minh là một trong những sản phẩm được ưa chuộng. Trong quá trình dạy học ngoài việc biết sử dụng đài đĩa, đầu đĩa... thì GV ai cũng có thể dùng điện thoại thông minh để quay, chụp ảnh, ghi âm, truy cập mạng Internet để hỗ trợ trong quá trình giảng dạy.
2.3.2 Những chú ý khi lên lớp:
	Trước khi lên lớp giáo viên cần nắm vững giáo án, chú ý ghi nhớ tiến trình, những lời dẫn dắt để chuyển từ hoạt động này qua hoạt động khác, kết hợp lời giảng với thao tác máy cần nhịp nhàng cho tiết dạy sinh động. Cần tính toán sao cho thời gian của tiến trình dự định phải gần như trùng khớp với thời gian thực dạy trên lớp.
2.3.3. Các ví dụ minh họa :
2.3.3.1 Các ví dụ minh họa về ứng dụng CNTT thông qua soạn giáo án điện tử
Ví dụ 1: Bài 3: “Trao đổi chất ở người” (tiếp theo) 
Khi học xong bài này học sinh có khả năng: Kể tên một số cơ quan trực tiếp tham gia quá trình trao đổi chất ở người: tiêu hóa, hô hấp, tuần hoàn, bài tiết. Biết được một trong các cơ quan ngừng hoạt động thì cơ thể sẽ chết.
Nên khi dạy bài này tôi đã thiết kế bài giảng như sau:
Ở slide thứ nhất tôi cho học sinh quan sát các tranh vẽ các cơ quan trong cơ thể người tham gia vào quá trình trao đổi chất. Sau đó đến các slide tiếp theo tôi dùng hiệu ứng để biểu diễn quá trình trao đổi chất diễn ra ở từng cơ quan một. Sau khi học sinh theo dõi quá trình đó thì các em đễ dàng nhận ra được chức năng của từng cơ quan.
 [2]
 [2]
 [2]
Sau khi học sinh nắm được quá trình trao đổi chất ở các cơ quan trong cơ thể tôi tiến hành cho học sinh hoàn thành sơ đồ mối liên hệ giữa một số cơ quan trong quá trình trao đổi chất ở người.
Phần này tôi có thể tổ chức cho học chơi trò chơi chọn thẻ số ghép với ô tương ứng.
Cách chơi: Chia lớp thành hai nhóm. Giáo viên nêu luật chơi. Mỗi đội cử đại diện trả lời. Đội này đọc nội dung trong thẻ thì đội kia phải nêu được số cần điền. Sau đó lại ngược lại. Ví dụ: Đội 1 đọc: Các chất dinh dương thì đội 2 phải nêu được ô số 1....
Sau khi hai đội trả lời thì giáo viên dùng hiệu ứng để đưa ra đáp án. 
 [2]
Với việc tổ chức trò chơi này, chúng ta đã giúp học sinh hứng thú học tập và nắm bài một cách dễ dàng. Mọi học sinh có thể tham gia được.
Ví dụ 2: Bài 43: Âm thanh trong cuộc sống.
Đối với bài này giáo viên giúp học sinh nêu được ví dụ về ích lợi của âm thanh trong cuộc sống: Âm thanh dùng để giao tiếp trong sinh hoạt, học tập, lao động, giải trí; dùng để báo hiệu (còi tàu, xe, trống trường, )
Xuất phát từ mục tiêu của bài học tôi đã thiết kế bài giảng như sau:
Hoạt động 1: Trò chơi khởi động.
Trước hết tôi cho học sinh chơi trò chơi: “Tìm từ diễn tả âm thanh”. 
Cách chơi: Giáo viên cho học sinh nghe các âm thanh như: tiếng các con vật, tiếng các độn cơ, phương tiện giao thông, tiếng vỗ tay, tiếng hát... Học sinh phải tìm từ ngữ thích hợp để diễn tả âm thanh vừa nghe được.
 [2]
Hoạt động 2: Vai trò của âm thanh:
- Giáo viên cho học sinh quan sát và nghe các âm thanh, ghi lại vai trò của từng âm thanh.
- GV có thể sưu tâm thêm một số âm thanh khác ngoài trong sách giáo khoa. 
- Từ việc các em quan sát kết hợp với nghe các âm thanh các em thảo luận và nêu được vai trò của từng âm thanh. Ví dụ: tiếng cô giáo giảng bài; tiếng trao đổi với nhau; tiếng trống trường; tiếng vỗ tay; tiếng cồng chiêng. 
 [2]
 [2]
Hoạt động 3: Ích lợi của việc ghi lại được âm thanh.
Giáo viên cho học sinh nghe một bài hát, lời nói của Bác Hồ đọc Tuyên ngôn đọc lập.
 [2]
 [2]
Sau khi học sinh được nghe một bài hát, lời nói của Bác Hồ, giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận để đưa ra lợi ích của việc ghi lại âm thanh.
Giáo viên có thể cho một hoặc hai học sinh lên nói hoặc hát. Giáo viên ghi vào điện thoại thông minh để phát lại cho học sinh nghe.
Ví dụ 3: Bài 55 – 56: Ôn tập: Vật chất và năng lượng
Đối với bài này cần củng cố cho học sinh kiến thức về vật chất và năng lượng; các kĩ năng quan sát, thí nghiệm.
Củng cố kĩ năng về bảo vệ môi trường, giữ gìn sức khoẻ liên quan tới nội dung phần vật chất và năng lượng.
Giúp học sinh biết yêu thiên nhiên và có thái độ trân trọng với các thành tựu khoa học kĩ thuật.
Từ những nội dung kiến thức cần đạt như trên tôi đã thiết kế bài giảng như sau:
Ở tiết 1, để củng cố những kiến thức học sinh đã học, tôi thiết kế trò chơi “Ô chữ”. Với nội dung trò chơi này giúp học sinh củng cố và hệ thống được nội dung kiến thức trong phần: Vật chất và năng lượng, thông qua các thông tin ở từng ô chữ. 
Cách chơi: Chia lớp thành ba nhóm, mỗi nhóm khoảng 5 em đại diện tham gia cuộc chơi. Mỗi một nhóm được chọn ô chữ một lần và cứ lần lượt các nhóm chọn đến hết các ô chữ. Nếu trả lời đúng sẽ được 10 điểm, sai không được điểm. Tìm được từ khoá trước khi gợi ý được 40 điểm. Tìm được từ khoá sau khi gợi ý được 20 điểm. Mỗi một ô chữ có chứa nội dung một gợi ý. Khi học sinh chọn ngẫu nhiên một ô chữ giáo viên nhấn chuột vào ô số gợi ý sẽ hiện lên. Học sinh dựa vào gợi ý để tìm ra ô chữ. Trong quá trình có thể các em tìm được từ khoá của trò chơi. Nếu các ô chữ đã lật hết mà các em không tìm được thì giáo viên có thể gợi ý. 
Các câu hỏi gợi ý.
 [2]
Qua trò chơi này giúp các em hứng thú học tập hơn và khắc sâu kiến thức hơn. Mọi học sinh có thể tham gia được.
2.3.3.2 Ví dụ minh họa về sử dụng điện thoại thông minh, máy chiếu hỗ trợ quá trình giảng dạy.
Ví dụ 1: bài 40: Bảo vệ bầu không khí trong sạch
 	Sau khi các hoạt động tìm hiểu bài đã xong, để liên hệ củng cố kiế

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_vao_day_mon_khoa_hoc_lop_4.doc