SKKN Tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng vào giảng dạy Giáo dục công dân 10, 11

SKKN Tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng vào giảng dạy Giáo dục công dân 10, 11

Môn giáo dục công dân là một bộ phận thuộc khoa học xã hội đang được giảng dạy trong trường trung học phổ thông. Với nhiệm vụ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, thiết thực về triết học, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, về thời đại ngày nay, về đạo đức, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước. Qua đó, bước đầu hình thành và bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, phương pháp tư duy biện chứng trong việc phân tích, đánh giá hiện thực khách quan, góp phần hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa, bao gồm phẩm chất và năng lực – hai nhân tố cơ bản tạo nên nhân cách con người.

 Trường THPT với mục tiêu đào tạo, hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho thế hệ trẻ - những công dân tương lai, những người lao động mới phát triển hài hòa trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, thẩm mỹ và biết quý trọng lao động. Yêu cầu khách quan đó được quán triệt trong tất cả các chương trình và nội dung học tập của các môn nói chung, trong đó có môn giáo dục công dân (GDCD). Cùng với các môn khoa học khác, môn GDCD góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động mới, vừa có tri thức khoa học vừa có đạo đức, có năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị, tư tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, với chính bản thân mình. Hơn nữa, môn GDCD không chỉ cung cấp cho những công dân tương lai những tri thức vừa khái quát hóa, mà còn thông qua môn học giúp cho người học hình thành và phát triển phương pháp suy nghĩ và hành động phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, của xã hội.

 

doc 20 trang thuychi01 18461
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng vào giảng dạy Giáo dục công dân 10, 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT SẦM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÍCH HỢP NỘI DUNG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG VÀO GIẢNG DẠY GIÁO DỤC CÔNG DÂN 10, 11
Người thực hiện: Nguyễn Thị Dung
Chức vụ: Tổ phó tổ Sử - Giáo dục công dân
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Giáo dục công dân
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
	Môn giáo dục công dân là một bộ phận thuộc khoa học xã hội đang được giảng dạy trong trường trung học phổ thông. Với nhiệm vụ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, thiết thực về triết học, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, về thời đại ngày nay, về đạo đức, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước. Qua đó, bước đầu hình thành và bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, phương pháp tư duy biện chứng trong việc phân tích, đánh giá hiện thực khách quan, góp phần hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa, bao gồm phẩm chất và năng lực – hai nhân tố cơ bản tạo nên nhân cách con người. 
	Trường THPT với mục tiêu đào tạo, hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho thế hệ trẻ - những công dân tương lai, những người lao động mới phát triển hài hòa trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, thẩm mỹ và biết quý trọng lao động. Yêu cầu khách quan đó được quán triệt trong tất cả các chương trình và nội dung học tập của các môn nói chung, trong đó có môn giáo dục công dân (GDCD). Cùng với các môn khoa học khác, môn GDCD góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động mới, vừa có tri thức khoa học vừa có đạo đức, có năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị, tư tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, với chính bản thân mình. Hơn nữa, môn GDCD không chỉ cung cấp cho những công dân tương lai những tri thức vừa khái quát hóa, mà còn thông qua môn học giúp cho người học hình thành và phát triển phương pháp suy nghĩ và hành động phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, của xã hội.
Đất nước ta hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị và ngoại giao, được nhân dân tin tưởng, hưởng ứng. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức, một trong những nguy cơ cản trở công cuộc đổi mới đất nước chính là tệ tham nhũng. Tham nhũng cùng với lãng phí đã gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, làm băng hoại đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xâm hại trực tiếp công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, là nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu quả nguy hại của tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng và đã đạt được kết quả bước đầu. Tuy nhiên nạn tham nhũng vẫn diễn ra hết sức phổ biến, ngày càng tinh vi, xảo quyệt ở nhiều cấp, nhiều ngành. Thậm chí, tham nhũng đã ăn sâu vào tư duy và tác phong làm việc hàng ngày của một số cán bộ, công chức, làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, gây bất bình trong nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nêu rõ: Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn nghiêm trọng; kỷ cương phép nước trong nhiều việc, nhiều lúc chưa nghiêm Đã đến lúc chúng ta phải nhận thức đầy đủ tính chất, mức độ, những tác hại và biến quyết tâm chính trị thành những biện pháp cụ thể để ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng...[5]
Nhận thức được tầm quan trọng của công cuộc phòng chống tham nhũng, bắt đầu từ năm học 2013-2014, Bộ GD&ĐT triển khai thực hiện Chỉ thị số 10/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục THPT. Theo đó, nội dung phòng, chống tham nhũng được lồng ghép tích hợp vào môn Giáo dục công dân, với thời lượng 6 tiết, được phân bổ trong 3 năm học. Tuy nhiên nội dung giáo dục phòng, chống tham nhũng được đưa vào dạy học trong các trường THPT bao hàm nhiều kiến thức xã hội rộng và kiến thức về pháp luật. Theo đó, tập trung vào các vấn đề: Khái niệm tham nhũng; những biểu hiện của tham nhũng; nguyên nhân, tác hại của tham nhũng đối với Nhà nước và xã hội; thái độ ứng xử của học sinh đối với hành vi tham nhũng. Đây là những vấn đề mới và khó, đòi hỏi giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân không chỉ nắm vững chuyên môn, sử dụng phương pháp sư phạm hợp lý mà còn phải đầu tư nghiên cứu về pháp luật, xã hội và quan trọng phải biết tích hợp những kiến thức về phòng, chống tham nhũng vào bài dạy sao cho sinh động để học sinh có thể tiếp thu bài giảng một cách hứng thú, nhẹ nhàng nhất.	
Vì vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để tích hợp kiến thức phòng chống tham nhũng vào bài dạy GDCD hợp lý, cùng với sự ứng dụng các phương tiện hỗ trợ khác tạo nên tiết học không khô khan, học sinh hào hứng, được trình bày quan điểm, thái độ của mình về vấn đề nêu ra. Đặc biệt ở các bài đạo đức GDCD lớp 10 và các bài về chính trị xã hội của GDCD lớp 11. Với sự trăn trở của bản thân một giáo viên trẻ cùng hơn 10 năm trong nghề, làm thế nào để tạo nên một giờ học GDCD vừa hứng thú vừa có tính hiện thực tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng vào giảng dạy giáo dục công dân 10, 11”. Nhằm đưa kiến thức phòng chống tham nhũng đến với học sinh một cách thiết thực và hiệu quả nhất.
1. 2. Mục đích nghiên cứu.
	Như chúng ta đã thấy, tham nhũng là trở lực đối với quá trình đổi mới đất nước và làm sói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng trên nhiều lĩnh vực, kéo dài gây bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, tha hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Từ đó tôi nhận thấy tầm quan trọng của việc tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng vào giảng dạy môn GDCD 10, 11. Nhằm nâng cao hiểu biết của học sinh về vấn đề nóng bỏng của xã hội và giúp các em có một kỹ năng tốt trong cuộc sống thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Bài 10 “Quan niệm niệm về đạo đức”, bài 11 “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học” (Chương trình GDCD lớp 10) và bài 9 “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”, bài 10 “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” (Chương trình GDCD lớp 11) với các kiến thức xã hội có liên quan đến nội dung đề tài.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
	Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
	- Nghiên cứu lý thuyết.
	- Quan sát sư phạm.
	- Thực nghiệm sư phạm.
	- Phương pháp thống kê.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
	Có thể khẳng định rằng môn GDCD là môn học không thể thiếu của các trường phổ thông hiện nay. Bởi đây là môn học tổng hợp nhiều tri thức khoa học, vừa góp phần nâng cao nhận thức và hành vi người công dân, vừa giúp các em hoàn thiện nhân cách bản thân. Môn GDCD cung cấp cho học sinh một hệ thống chuẩn mực lối sống phù hợp với yêu cầu của xã hội, phù hợp với lứa tuổi học sinh, giúp các em có thể sống hòa nhập và hợp tác tốt hơn. Đặc biệt trong thời đại ngày nay chúng ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thời kì hội nhập kinh tế quốc tế.
	Môn GDCD cung cấp cho học sinh những phương thức ứng xử về đạo đức, văn hóa, pháp luật, để từ đó hình thành cho các em sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, hướng các em vào việc thực hành trong cuộc sống hàng ngày những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, pháp luật, tạo ra những công dân mới, con người mới – con người xã hội chủ nghĩa đáp ứng nhu cầu mà xã hội đặt ra.	Đặc biệt, trong xã hội hiện nay lại trổi lên một vấn đề mang tính thời sự đó là hiện tượng tham nhũng. Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân. Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Tham nhũng đã trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Chính vì vậy, Chính phủ ta đang làm rất mạnh mẽ về công tác phòng chống tham nhũng. Vậy thì không có lý do gì để ngành giáo dục thờ ơ, đứng ngoài cuộc. Vì thế, dạy về phòng chống tham nhũng là dạy cho học sinh nhận thức đúng đắn, rèn luyện bản lĩnh bản thân, ngăn chặn sự phát triển của ý thức tham nhũng tiêu cực. Bản thân giáo viên phải giúp học trò có lòng tin vào giáo dục. Nhờ vào giáo dục con người lương thiện, tử tế hơn, không tham nhũng những cái không phải của bản thân mình. 
	Tuy nhiên, với xu hướng hiện nay các em chủ yếu học với mục đích thi đậu vào đại học những môn không tham gia thi vào đại học các em coi là môn phụ, không quan tâm và không chú ý học. Là giáo viên giảng dạy môn GDCD tôi rất băn khoăn, trăn trở làm thế nào để các em không nhàm chán, hứng thú với môn học. Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng vào giảng dạy giáo dục công dân 10, 11 ”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
	Môn GDCD giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi người công dân, phát triển tâm lực và nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên, thực tế khi xét về phương diện nào đó thì vai trò của môn học này chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn như nó vốn có.
	Thực trạng dạy học môn GDCD ở trường trung học phổ thông hiện nay đang còn là vấn đề nan giải. Sách giáo khoa và tài liệu phục vụ cho việc dạy học bộ môn đang còn nhiều hạn chế về số lượng và chất lượng. Học sinh lơ là trong học tập, phụ huynh và xã hội không quan tâm cho đây là môn phụ nên các em học một cách đối phó. Chính vì vậy mà chất lượng đào tạo không đáp ứng được yêu cầu về mục tiêu giáo dục của bộ môn đề ra.
	Quá trình dạy môn GDCD là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo, để thông qua đó, học sinh có thể tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình học, giáo viên phải huy động, khai thác tối đa năng lực tư duy cho học sinh, tạo cơ hội và động viên khuyến khích học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về vấn đề đang học. 
Xuất phát từ thực tiễn dạy học như vậy và từ chính kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy rằng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ như hiện nay cần đào tạo con người một cách toàn diện. Để làm được điều đó ngoài những phương pháp truyền thống như: Đàm thoại, vấn đáp, nêu vấn đề... giáo viên nên sử dụng kết hợp một cách sáng tạo các phương pháp mới. Chính vì vậy tôi đã chọn phương pháp tích hợp nội dung phòng, chống tham nhũng vào giảng dạy bộ môn.
Vấn đề giảng dạy môn GDCD ở trường trung học phổ thông Sầm Sơn hiện nay cũng có những thuận lợi và khó khăn:
	Thuận lợi:
	- Có đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tận tâm trong giảng dạy, có trình độ sư phạm tốt, có kiến thức vững vàng, có đầu tư nghiên cứu. Vì thế, thông qua công tác dự giờ, thao giảng đã đóng góp ý kiến giúp cho các thành viên trong tổ có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy.
	- Nhà trường có nhiều phòng máy chiếu để giáo viên có thể minh họa bài giảng một cách sinh động thông qua các phương pháp dạy học tích cực.
	- Nhà trường đạt chuẩn quốc gia nên học sinh khá ngoan và có ý thức tốt. Tuy nhiên phần lớn học sinh theo khối A, B và A1 nên việc ham thích học môn GDCD còn nhiều hạn chế.
	- 100% học sinh được trang bị đầy đủ sách giáo khoa.
Khó khăn.
	- Vì đa số học sinh theo ban khoa học tự nhiên nên phần lớn các em ngại học môn GDCD. Hơn nữa các em cho rằng môn GDCD không có vai trò gì quan trọng trong thi đại học của các em.
	- Đa số học sinh vẫn còn thói quen học thuộc, học vẹt, học đối phó nên không nắm sâu được kiến thức, vì thế nhanh quên kiến thức cũ và chậm nắm kiến thức mới.
	- Đồ dùng dạy học của bộ môn còn ít, phần lớn đồ dùng đều do giáo viên tự làm nên còn hạn chế và chưa	 đồng bộ.
	- Các nội dung, điều luật tích hợp, lồng nghép còn mang nặng tính hàn lâm, chưa có tính áp dụng thực tiễn cao đối với học sinh. Hiện nay, nhiều nội dung khác được tích hợp trong môn GDCD gây lúng túng cho giáo viên.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
	Có rất nhiều phương pháp để sử dụng trong giảng dạy. Tuy nhiên giáo viên phải là người biết lựa chọn và sử dụng đúng đắn. Để có phương pháp phù hợp, giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ bài dạy trước khi soạn giáo án, dựa vào nội dung sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kỹ năng, chương trình giảm tải của Bộ giáo dục và đào tạo, giáo viên cụ thể hóa bài dạy bằng cách lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp tích cực, từ đó sử dụng kiến thức xã hội tích hợp vào nội dung bài dạy.
	 Với việc tích hợp phòng chống tham nhũng vào một số bài dạy phần đạo đức của lớp 10 và phần chính trị xã hội của lớp 11. Đây là kiến thức khá mới mẻ, rất rộng lớn và khó tiếp nhận. Nên giáo viên cần đưa ra những tình huống cụ thể xoạy quanh cuộc sống hàng ngày để học sinh suy nghĩ, trình bày quan điểm, thái độ về vấn đề. Cho học sinh khai thác các ví dụ tiêu biểu, đặc sắc từ đó rút ra được nội dung bài học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
	Tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng vào giảng dạy giáo dục công dân 10, 11.
	Bài 10: Quan niệm về đạo đức (chương trình GCDC lớp 10)
	Theo phân phối chương trình bài này dạy trong 1 tiết, bài gồm 2 phần, nội dung kiến thức phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh. Tuy nhiên, giáo dục phòng chống tham nhũng là nội dung khá mới lạ, khó hiểu, khô khan đối với lứa tuổi học sinh bậc trung học phổ thông nên giáo viên phải nghiên cứu kỹ kiến thức của bài học và kiến thức phòng chống tham nhũng, pháp luật về phòng chống tham nhũng để vận dụng chúng sao cho phù hợp đảm bảo yêu cầu của bài học.
	* Tích hợp điểm a mục 1 “đạo đức là gì”
	- Sau khi đưa ra khái niệm đạo đức: “đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội”.[1]
	Hành vi đạo đức là hành vi của con người có động cơ bên trong phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực đạo đức của xã hội, của nhân dân – những động cơ cao thượng, vô tư, xuất phát từ sự cảm thông và tình thương yêu thật sự đối với người khác.
- Giáo viên cần đưa ra khái niệm tham nhũng. “Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước”. Tham nhũng là biểu hiện của sự tha hóa quyền lực nhà nước.[3]
	- Về bản chất tham nhũng là một loại hình tội phạm, hành vi tham nhũng thường liên quan đến người có chức, có quyền. Người có hành vi tham nhũng chà đạp lên lợi ích của nhà nước và công dân, là người không có đạo đức.[3]
	Ví dụ: Người tham ô tài sản của nhà nước chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân, xâm phạm lợi ích của nhà nước.
	- GV đặt câu hỏi: Phân biệt hành vi tham nhũng với hành vi không phải là tham nhũng?
	Ví dụ: Tham ô tài sản của nhà nước là hành vi tham nhũng, lấy trộm tài sản của nhà nước không phải là hành vi tham nhũng.
	* Tích hợp điểm b mục 1 “phân biệt đạo đức với pháp luật và phong tục tập quán trong sự điều chỉnh hành vi của con người”.
	- Sau khi GV cho học sinh tìm hiểu khái niệm pháp luật: “Pháp luật là những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung được nhà nước quy định và đảm bảo thi hành bằng sức mạnh nhà nước”[4] thì GV lấy ví dụ về Luật phòng chống tham nhũng.
	Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 quy định: Những hành vi sau thuộc nhóm hành vi tham nhũng.
	+ Tham ô tài sản.
	+ Nhận hối lộ.
	+ Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
	+ Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
	+ Lợi dụng chức vụ quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của nhà nước vì vụ lợi...[3]
	GV kết luận: Như vậy, những hành vi trên là hành vi tham nhũng được quy định đối với tất cả mọi người. Và mọi người phải thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Từ đó ta thấy, đạo đức và pháp luật có những điểm khác nhau: Đạo đức mang tính tự ngyện, là yêu cầu cao của xã hội đối với con người, nếu không thực hiện sẽ bị xã hội lên án. Còn pháp luật lại mang tính bắt buộc, là yêu cầu tối thiểu được quy định trong văn bản của nhà nước mà cá nhân và nhà nước phải tuân theo, nếu không thực hiện sẽ bị cưỡng chế bằng sức mạnh nhà nước.
	Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học (chương trình GDCD lớp 10)
	* Tích hợp điểm a mục 1: “Nghĩa vụ là gì”
	- GV cho học sinh tìm hiểu khái niệm nghĩa vụ: “Nghĩa vụ là trách nhiệm của cá nhân đối với yêu cầu, lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội”.[1]
	- Sau đó GV khẳng định: Xã hội có yêu cầu của xã hội, cá nhân cũng có yêu cầu của cá nhân. Vì vậy, trong lao động và trong đời sống xã hội đòi hỏi mỗi cá nhân phải có ý thức hòa nhập với người khác, đặt nhu cầu và lợi ích của cá nhân trong lợi ích của toàn xã hội hay nói cách khác phải biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của xã hội. Khi cá nhân ý thức được và biến những yêu cầu đó thành trách nhiệm của bản thân thì những trách nhiệm này trở thành nghĩa vụ của cá nhân. Thậm chí trong một số trường hợp cá nhân còn phải biết đặt nhu cầu và lợi ích của xã hội lên trên, nếu cần còn phải hi sinh quyền lợi của mình vì quyền lợi chung.
	Như Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người Đảng viên cũng phải biết đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”.[6]
	- Khi con người trở nên ích kỉ vì bản thân mình, chỉ chăm lo cho lợi ích của mình, xem thường lợi ích của người khác, của xã hội và của nhà nước, chà đạp lợi ích của người khác, của nhà nước và của xã hội, điều đó có nghĩa là con người đã không thực hiện nghĩa vụ của bản thân mình. Từ đó mà con người lẫn đến tham nhũng. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tham nhũng là hành vi của những người “đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc “tự tư, tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình”.[6] Là hành vi cố ý vi phạm pháp luật, các quy định, chuẩn mực nghề nghiệp, kỷ luật công vụ.... của những người làm việc cho nhà nước, gây ra những thiệt hại cho nhà nước, cho nhân dân. Những thiệt hại đó có thể là tiền, nhà, đất, các vật có giá trị, lợi ích của nhà nước, nhân dân hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn mong muốn đạt được từ việc thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình. Lợi ích đó có thể cho mình, cho gia đình hoặc người thân của mình.
	* Tích hợp điểm a mục 2 “Lương tâm là gì”.
	- GV cho học sinh tìm hiểu khái niệm lương tâm: “Lương tâm là năng lực tự đánh giá và điều chỉnh hành vi đạo đức của bản thân trong mối quan hệ với người khác và xã hội” [1], lương tâm có hai trạng thái. 
	+ Trạng thái thanh thản lương tâm: Là khi thực hiện những hành vi phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội, thì cá nhân cảm thấy hài lòng, thỏa mãn với chính mình.
	+ Trạng thái cắn rứt lương tâm: Là khi cá nhân có các hành vi sai lầm, vi phạm các chuẩn mực đạo đức họ cảm thấy ăn năn và hối hận.
	- GV kết luận: Như vậy, người có lương tâm là người có đạo đức, luôn thực hiện những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Là người luôn tự biết điều chỉnh hành vi đạo đức của bản thân cho phù hợp với mọi người, với xã hội. Muốn giữ cho lương tâm được trong sạch cần phải làm theo lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh: Đó là cần, kiệm, liêm, chính. 
Khi một người đã tham nhũng họ chỉ biết đến lợi ích của chính mình, khi đó họ đang tự đánh mất lương tâm. Bởi vì tham nhũng thể hiện sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, lợi dụng chức, vụ quyền hạn để làm giàu bất chính. Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích c

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_noi_dung_phong_chong_tham_nhung_vao_giang_day.doc