SKKN Tích hợp kiến thức bảo vệ môi trường trong dạy học Sinh học 9
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng, hiện tượng khai thác tài nguyên sinh vật ngày càng bừa bãi, nạn phá rừng đang còn xảy ra ở một số nơi,.
Bộ môn sinh học 9 là môn học giúp học sinh có những hiểu biết khoa học về thế giới sống, về mối quan hệ giữa con người với môi trường, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, vì vậy môn sinh học 9 có khả năng tích hợp rất nhiều nội dung trong dạy học, trong đó việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề quan trọng trong hoạt động dạy học.
Hiện nay như chúng ta đã biết môi trường đang bị huỷ hoại nghiêm trọng, gây nên sự mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống. Một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trên là do tiến trình công nghiệp hoá, sự yếu kém về khoa học xử lý chất thải, sự thiếu ý thức, thiếu hiểu biết của con người.
Giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp bách có tính toàn cầu và là vấn đề có tính khoa học, tính xã hội sâu sắc. Đặc biệt vấn đề này rất cần thiết cho các em học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước. Làm thế nào để hình thành cho các em ý thức bảo vệ môi trường và thói quen sống vì một môi trường xanh - sạch - đẹp.
Ngày nay vấn đề ô nhiễm môi trường, phá vỡ cân bằng sinh thái đã là vấn đề quan tâm chung của nhân loại. Vì vậy, người ta coi vấn đề bảo vệ môi trường là một trong các "vấn đề toàn cầu".
Nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường đã được xác định chủ yếu là do các hoạt động của con người như: Chặt phá rừng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, sinh hoạt, dân số tăng nhanh, do các phong tục tập quán của người dân như đốt nương làm rẫy, canh tác, việc săn bắt động vật hoang dã, tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản bừa bãi đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống trên Trái Đất gây mất cân bằng sinh thái, tài nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng đe doạ chất lượng cuộc sống, sức khoẻ của con người; khí hậu toàn cầu đang thay đổi, hạn hán, lũ lụt, lỗ thủng tầng ôzôn, mất cân bằng sinh thái, làm tan băng, . ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của xã hội.
Là giáo viên, việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các em học sinh. Những chủ nhân tương lai của đất nước qua các tiết dạy là một yêu cầu không thể thiếu trong quá trình dạy học. Vậy phải giáo dục như thế nào mới có hệ thống và hiệu quả. Tôi xin chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Tích hợp kiến thức bảo vệ môi trường trong dạy học sinh học 9 ” nhằm giúp quá trình dạy học tốt hơn.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng, hiện tượng khai thác tài nguyên sinh vật ngày càng bừa bãi, nạn phá rừng đang còn xảy ra ở một số nơi,... Bộ môn sinh học 9 là môn học giúp học sinh có những hiểu biết khoa học về thế giới sống, về mối quan hệ giữa con người với môi trường, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, vì vậy môn sinh học 9 có khả năng tích hợp rất nhiều nội dung trong dạy học, trong đó việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề quan trọng trong hoạt động dạy học. Hiện nay như chúng ta đã biết môi trường đang bị huỷ hoại nghiêm trọng, gây nên sự mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống. Một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng trên là do tiến trình công nghiệp hoá, sự yếu kém về khoa học xử lý chất thải, sự thiếu ý thức, thiếu hiểu biết của con người. Giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề cấp bách có tính toàn cầu và là vấn đề có tính khoa học, tính xã hội sâu sắc. Đặc biệt vấn đề này rất cần thiết cho các em học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước. Làm thế nào để hình thành cho các em ý thức bảo vệ môi trường và thói quen sống vì một môi trường xanh - sạch - đẹp. Ngày nay vấn đề ô nhiễm môi trường, phá vỡ cân bằng sinh thái đã là vấn đề quan tâm chung của nhân loại. Vì vậy, người ta coi vấn đề bảo vệ môi trường là một trong các "vấn đề toàn cầu". Nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường đã được xác định chủ yếu là do các hoạt động của con người như: Chặt phá rừng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, sinh hoạt, dân số tăng nhanh, do các phong tục tập quán của người dân như đốt nương làm rẫy, canh tác, việc săn bắt động vật hoang dã, tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản bừa bãi đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống trên Trái Đất gây mất cân bằng sinh thái, tài nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng đe doạ chất lượng cuộc sống, sức khoẻ của con người; khí hậu toàn cầu đang thay đổi, hạn hán, lũ lụt, lỗ thủng tầng ôzôn, mất cân bằng sinh thái, làm tan băng, ... ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của xã hội. Là giáo viên, việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các em học sinh. Những chủ nhân tương lai của đất nước qua các tiết dạy là một yêu cầu không thể thiếu trong quá trình dạy học. Vậy phải giáo dục như thế nào mới có hệ thống và hiệu quả. Tôi xin chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Tích hợp kiến thức bảo vệ môi trường trong dạy học sinh học 9 ” nhằm giúp quá trình dạy học tốt hơn. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Nhằm định hướng cho HS hiểu và ý thức được một số vấn đề về môi trường đang được quan tâm hiện nay, có liên quan trực tiếp tới quá trình dạy và học môn Sinh học ở trường THCS Chu Văn An. - Giúp mỗi học sinh cần phải nhận thức rõ những hành động cụ thể của mình trong việc phòng chống ô nhiễm môi trường như: trồng thêm cây xanh, hạn chế dùng túi nilon, đừng liệng chai nhựa ra môi trường, không xả rác bừa bãi, - Giúp học sinh ham mê, yêu thích bộ môn sinh học. - Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường, cải thiện và xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp. - Đối với giáo viên: đẩy mạnh công tác "giáo dục môi trường", lồng ghép giáo dục môi trường một cách thuận lợi và thường xuyên. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Áp dụng cho các bài ở môn sinh học 9 đặc biệt là phần II: Sinh vật và môi trường sinh học 9 Trường THCS Chu Văn An - Đối tượng: học sinh trong giảng dạy và học tập môn sinh học 9 ở trường THCS Chu Văn An 1.4. Phương pháp nghiên cứu Trong qúa trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm bản thân tôi đã sử dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp trực quan - Phương pháp tham quan, điều tra, khảo sát, nghiên cứu thực địa. - Phương pháp thí nghiệm. - Phương pháp khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục. - Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề. - Phương pháp tổ chức hoạt động nhóm của học sinh. - Phương pháp hoạt động thực tiễn. 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm - Giúp cho HS hiểu và ý thức được vấn về đề môi trường mang tính chất toàn cầu và hiện nay được toàn thế giới quan tâm. Vấn đề đó có liên quan trực tiếp tới quá trình học tập môn Sinh học nói chung và môn Sinh học 9 nói riêng - Làm rõ được vai trò của môi trường đối với nhân loại nói chung và với cuộc sống của người dân địa phương nói riêng. - Nêu lên các giải pháp bảo vệ môi trường, phát triển rừng nhìn từ góc độ Sinh học (Bảo vệ hệ sinh thái, bảo vệ Tài nguyên thiên nhiên, chống xói mòn đất, hạn chế hiệu ứng nhà kính). Bảo vệ nguồn nước, bảo vệ nguồn tài nguyên đất, bầu không khí.Tuyên truyền bảo vệ môi trường, giữ vệ sinh môi trường nơi ở, nơi làm việc, học tập - Giáo dục các em thành các tuyên truyền viên trong công tác bảo vệ môi trường. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Sinh học là một bộ môn khoa học thực nghiệm được gắn liền với đời sống. Để thực hiện có hiệu quả việc tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường, giáo viên cần xác định : - Mục tiêu tích hợp. - Nguyên tắc tích hợp. - Nội dung, phương pháp, hình thức tích hợp. - Địa chỉ tích hợp. Tuy nhiên dù tích hợp nội dung nào trong giảng dạy người giáo viên cũng phải thực hiện nghiêm túc kiến thức cơ bản của môn học biết cách liên hệ và gắn liền giữa lí thuyết và thực tiễn, các nội dung tích hợp đưa ra phải ngắn gọn, xúc tích mang tính chất thực tế không kéo dài thời gian trên lớp và làm nặng nề giờ học. Đối với bài học mà toàn bộ nội dung có liên quan đến môi trường, ví dụ chương III và chương IV phần sinh vật và môi trường trong chương trình sinh học lớp 9. Đòi hỏi giáo viên và học sinh đều phải cập nhật thông tin thường xuyên thì nội dung bài học mới trở nên phong phú. Có nghĩa là giáo viên và học sinh cùng nhau tìm hiểu và nghiên cứu về môi trường 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a. Về phía giáo viên - Do chương trình sinh học 9 có nhiều bài kiến thức còn dài nên đôi lúc giáo viên chưa có nhiều thời gian để giáo dục cho học sinh về ý thức bảo vệ môi trường. - Hiện nay một số giáo viên bỏ qua phần liên hệ thực tế là do một trong các lý do sau: + Không căn chuẩn thời gian các phần + Phần liên hệ được coi là phần phụ. + Giáo viên ít có kiến thức thực tế và không thường xuyên cập nhật kiến thức mới về môi trường. Thường ở thông tin này giáo viên bỏ qua vấn đề ô nhiễm môi trường hoặc chưa có kiến thức thực tế sinh động nên học sinh chưa ý thức được sự nghiêm trọng của ô nhiễm môi trường. Theo cấu trúc chương trình SGK Sinh học nói chung và sinh học 9 nói riêng, phần có liên quan tới môi trường thường đưa vào mục cuối của bài nên người giáo viên hay chú tâm vào những nội dung chính của bài, nếu còn thời gian mới liên hệ đến phần cuối hoặc bỏ qua phần liên hệ thực tế cho các em. Thông thường giáo viên chỉ thiết kế nội dung bài học theo SGK học sinh sẽ cảm thấy chán học vì học sinh hiện nay có rất ít kiến thức thực tế: SGK nói những gì thì học sinh biết điều đó hoặc giáo viên phải cung cấp thông tin. Từ đó dẫn tới việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các em chưa đạt được hiệu quả cao. Từ những lý do đó mà giáo viên chưa nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh. Vậy chúng ta cần phải tìm ra biện pháp để khắc phục vấn đề này. b. Về phía học sinh. - Nhiều học sinh chỉ học thiên lệch về lí thuyết, còn việc vận dụng vào thực tế còn ít hoặc kém hiệu quả. Tinh thần vận động mọi người xung quanh thực hiện tốt các hành vi bảo vệ môi trường còn chưa cao. - Thực trạng HS ít được tiếp xúc với thực tế nên chưa đánh giá hết mức độ ô nhiễm môi trường, còn thờ ơ trước sự ô nhiễm môi trường. - Bản thân một số học sinh là tác nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường. Minh chứng cho điều này là hiện nay các em vẫn chưa tự giác trong việc trồng và bảo vệ cây xanh, còn xả rác bừa bãi, bẻ cây, bẻ cành và thờ ơ trước những hành động gây ô nhiễm môi trường .... - Hiện nay một số học sinh THCS Chu Văn An còn hạn chế trong các kỹ năng thu nhận thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, từ thực tế làm vốn kiến thức để vận dụng kiến thức thực tế vào bài học. Vì vậy ý thức bảo vệ môi trường của học sinh là chưa cao. - Đó chính là lí do thúc đẩy tôi tìm ra biện pháp khắc phục vấn đề này. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Biện pháp chung a. Giáo viên có thể giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh ngay trong các hoạt động dạy của mình. Nếu trong cấu trúc bài học nội dung có liên quan tới môi trường được đặt ở cuối mỗi bài nên chiếm một nội dung rất nhỏ trong bài, tuy nhiên người giáo viên nhất thiết không được coi là phần phụ mà dễ bỏ qua. Cần đưa vào mục tiêu giáo dục của bài. Giáo viên dẫn dắt gợi ý cho học sinh tự nói dựa trên hiểu biết của mình, sau đó giáo viên khuyến khích cho điểm đối với học sinh đưa ra những thông tin đúng ngoài SGK. Ví dụ: Bài 53:Tác động của con người đối với môi trường - SGK Sinh học 9. Giáo viên cho học sinh tự đọc thông tin tìm hiểu sự tác động của con người tới môi trường qua các thời kỳ phát triển của xã hội - học sinh sẽ hiểu được thời kì nguyên thuỷ môi trường ít chịu tác động của con người, thời kỳ xã hội nông nghiệp đã chịu sự tác động chủ yếu của con người do hoạt động phá rừng làm rẫy, xây dựng khu dân cư......đặc biệt đến thời kỳ xã hội công nghiệp thì việc cơ giới hoá nông nghiệp, đô thị hoá....dẫn tới suy giảm môi trường. Tiếp theo giáo viên yêu cầu học sinh tự tìm hiểu những hoạt động của cộng đồng dân cư nơi mình đang sống có ảnh hưởng tới môi trường như thế nào? Cuối cùng tìm ra các biện pháp bảo vệ và cải tạo môi trường tự nhiên. Như vậy ta cứ tiến hành tích hợp ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh vào các bài học liên tục. Từ đó hình thành cho các em thói quen bảo vệ môi trường trước hết ở phương diện lý thuyết sau đó sẽ thành hành động cụ thể khi các em hiểu rõ vấn đề. b. Định hướng phương pháp giảng dạy bài học có liên quan tới môi trường. Để giảng dạy kiến thức có liên quan đến môi trường, giáo viên cần tích hợp một cách có hệ thống các kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường với kiến thức môn học thành nội dung thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau dựa trên mối liên hệ lí luận và thực tiễn đựoc đề cập trong bài học. Vì vậy kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường không phải muốn đưa vào lúc nào cũng được, mà phải căn cứ vào nội dung của bài học có liên quan với vẫn đề môi trường mới có thể tìm chỗ thích hợp để đưa vào. Đối với môn Sinh học có thể áp dụng hai dạng khác nhau: * Dạng lồng ghép - Ở dạng này, các kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường đã có trong chương trình SGK và trở thành một phần kiến thức môn học. Trong SGK Sinh học 9 môi dung này có thể chiếm một vài chương. Ví dụ: Chương I: Sinh vật và môi trương; Chương II: Hệ sinh thái; Chương III: Con người, dân số và môi trường; Chương IV: Bảo vệ môi trường. Chiếm một mục, một đoạn trong bài học ( lồng ghép một phần). Trong SGK Sinh học 9: Bài 29: Bệnh và tật di truyền ở người. Trong bài này ở mục III có các biện pháp để hạn chế bệnh và tật di truyền ở người: “Đấu tranh chống sản xuất, thử, sử dụng vũ khí hạt nhân, vũ khí hoá học và các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Sử dụng đúng cách các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc chữa bệnh”. Bài 30: Di truyền học với con người: trong bài này ở mục III có nêu lên hậu quả di truyền do ô nhiễm môi trường. * Dạng liên hệ - Ở dạng này các kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường không được đưa vào chương trình và SGK nhưng dựa vào nội dung bài học, giáo viên có thể bổ sung kiếm thức giáo dục bảo vệ môi trường có liên quan với bài học qua giờ lên lớp. Trong SGK sinh 9 có nhiều bài có khả năng liện hệ kiến thức bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, giáo viên cần xác định các bài học có khả năng lồng ghép và lựa chọn các kiến thức và vị trí có thể đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào bài một cách hợp lí. Muốn làm đựoc điều này đòi hỏi giáo viên phải luôn cập nhật các kiến thức về môi trường. Để giảng dạy kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường đối với môn Sinh học lớp 9 người giáo viên có thể vận dụng nhiều phương pháp khác nhau sao cho phù hợp mục tiêu bài học. các phương pháp thường sử dụng như: phương pháp trực quan, phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp thí nghiệm, phương pháp điều tra nghiên cứu, Trong đó dạy học hợp tác nhóm nhỏ có ưu thế rõ rệt vì khi đó học sinh được thảo luận tìm ra kiến thức một cách chủ động. Chúng ta có thể chia nhóm hoạt động, mỗi nhóm thực hiện một nội dung bài học bằng cách giao nhiệm vụ. Ví dụ : Bài 54 và 55: Ô nhiễm môi trường - Sinh học 9. Muốn thực hiện nội dung này ta giao nhiệm vụ hoạt động cho từng nhóm. - Nhóm nói về ô nhiễm không khí. - Nhóm nói về ô nhiễm nguồn nước. - Nhóm nói về ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật và chất độc hóa học Trong đó: Mỗi nội dung phải nêu được: - Nguyên nhân. - Biện pháp hạn chế. - Liên hệ bản thân Sau đó nhóm trình bày, nhóm khác nhận xét bổ sung và cho điểm. Song để thực hiện được nội dung này yêu cầu người giáo viên phải có vốn kiến thức thực tế và biết cách tổ chức hoạt động và giao nhiệm vụ trước cho học sinh c. Tích hợp kiến thức bảo vệ môi trường dưới các dạng trò chơi. Để thay đổi hình thức dạy - học cho học sinh đỡ nhàm chán (đặc biệt đối với phần sinh thái và môi trường sinh học 9) thì ta nên sử dụng phương pháp này: Ví dụ: Bài 58: Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên - Sinh học 9 Bài này gồm 3 nội dung: Sử dụng hợp lý tài nguyên đất. Sử dụng hợp lý tài nguyên nước. Sử dụng hợp lý tài nguyên rừng. Giáo viên giao nhiệm vụ cho các tổ về chuẩn bị các tình huống (mỗi tổ 1 tình huống, 1 nội dung) sau đó các tổ đưa ra tình huống sử dụng một loại tài nguyên nào đó và yêu cầu tổ khác giải quyết tình huống đó - xem sử dụng như thế đã hợp lý chưa, giải thích.... d. Tổ chức ngoại khoá trong giờ thực hành. - Địa bàn Huyện Nga Sơn nói chung và khu vực thị trấn nói riêng trong những năm gần đây dưới sự tác động của con người môi trường tại đây có nhiều thay đổi cả tích cực và tiêu cực. Vì vậy tổ chức ngoại khoá cho cho học sinh đi đến những nơi có thay đổi tích cực, tiêu cực là một dịp để các em nắm chắc nội dung bài học, từ đó tìm ra phương pháp bảo vệ môi trường hiện tại và tương lai. 2.3.2. Biện pháp cụ thể a. Xác định phương pháp giảng dạy bài học có liên quan tới môi trường. Đối với học sinh THCS, cần giáo dục ý thức quan tâm đến môi trường, trang bị cho các em những hiểu biết và kĩ năng cần thiết để các em có khả năng sử lý một số vấn đề môi trường cụ thể. Việc lựa chọn phương pháp để giáo dục bảo vệ môi trường một mặt phụ thuộc vào môn học, mặt khác phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của nhà trường. Ví dụ: Bài 54 - 55: Ô nhiễm môi trường - Sinh học 9 Để thực hiện nội dung bài học này thì giáo viên phải giao nhiệm vụ cho học sinh kẻ bảng 55 ( trang 168) vào vở bài tập. Bản thân giáo viên cũng chuẩn bị một số tranh ảnh về tình trạng ô nhiễm môi trường ở địa phương và trong nước. - Mỗi tổ chuẩn bị : Sưu tập tranh ảnh về ô nhiễm môi trường về các nội dung: + Ô nhiễm không khí + Ô nhiễm nguồn nước. + Ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, hoá chất. + Ô nhiễm do chất thải rắn. + Ô nhiễm do chất phóng xạ. + Ô nhiễm do các tác nhân sinh học. + Ô nhiễm do hoạt động tự nhiên, thiên tai. + Ô nhiễm tiếng ồn. Hoạt động 1: Ô nhiễm môi trường là gì ? - Giáo viên yêu cầu các tổ báo cáo kết quả của tổ theo phần chuẩn bị . ? Nhận xét hiện tượng gì trong các tranh, ảnh? ? Ô nhiễm môi trường là gì ? ? Nguyên nhân gây ô nhiễm ? ? Kể tên một số môi trường bị ô nhiễm ? - HS các tổ báo cáo - Học sinh tự khái quát thành khái niệm. Kết luận. Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị bẩn, đồng thời các tính chất vật lý, hoá học, sinh học của môi trường bị thay đổi gây tác hại tới đời sống con người và các sinh vật khác. Nguyên nhân: + Do hoạt động của con người + Do hoạt động của tự nhiên Hoạt động 2: Các tác nhân chủ yếu gây ô nhiễm và các biện pháp hạn chế gây ô nhiễm môi trường. - Yêu cầu HS thảo luận theo nhóm + Tổ 1: Ô nhiễm không khí và chất phóng xạ. + Tổ 2: Ô nhiễm nguồn nước và các tác nhân sinh học. + Tổ 3: Ô nhiễm do hoá chất và thuốc bảo vệ thực vật. Ô nhiễm do thiên tai và lũ lụt. + Tổ 4: Ô nhiễm do chất thải rắn. Ô nhiễm tiếng ồn. - Giáo viên yêu cầu đại diện 4 nhóm, mỗi nhóm 2 HS thi giữa các nhóm hoàn thiện phiếu học tập: + Nguyên nhân gây ô nhiễm. + Biện pháp hạn chế ô nhiễm + Liên hệ - Yêu cầu các nhóm nhận xét, bổ sung. - Giáo viên nhận xét và cho điểm đội thắng và có nhiều đáp án đúng. ? Chúng ta đã làm gì để hạn chế ô nhiễm môi trường - Học sinh làm việc theo nhóm. - Thảo luận các nội dung. + Nguyên nhân gây ô nhiễm. + Biện pháp hạn chế ô nhiễm. + Liên hệ bản thân. - Đại diện từng nhóm thi hoàn thiÖn bảng - Nhóm khác nhận xét bổ sung. Hoạt động 3: Giáo viên giới thiệu một số hình ảnh về tình trạng ô nhiễm môi trường tại địa bàn Huyện Nga Sơn và trong nước Khu vực Công ty MS VINA đóng tại Thị Trấn Nga Sơn Đốt rác thải tại xã Nga Mỹ - Nga Sơn Bãi rác và hoạt động đốt rác tại bãi rác Nga Giáp Nga Sơn Ô nhiễm do sử dụng các hóa chất bảo vệ thực vật ở một số địa phương trong nước Ô nhiễm do chất khí thải ra từ hoạt động công nghiệp trong nước và trên thế giới * Như chúng ta đã biết hậu quả của ô nhiễm môi trường là gây ra nhiều bệnh tật nguy hiểm cho con người và các sinh vật khác. Mỗi học sinh chúng ta hãy chung tay góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường bằng các hoạt đông thiết thực như: tích cực trồng và bảo vệ cây xanh, hạn chế dùng túi nylon, không xả rác bừa bãi, tuyên truyền vận động mọi người xung quanh cùng chung tay bảo vệ môi trường. Đặc biệt vận động bố mẹ và những người xung quanh tích cực trồng lương thực và thực phẩm an toàn, lên án những hành vi gây ô nhiễm môi trường,.. Kết luận: Bảng 55. Các biện pháp hạn chế ô nhiễm SGK- 168. Các loại ô nhiễm Tác nhân gây ô nhiễm Biện pháp hạn chế 1. Ô nhiễm không khí - Khí thải từ hoạt động công nghiệp và sinh hoạt. a,b,d,e,g,i,k,l,m,o 2. Ô nhiễm nguồn nước - Nước thải từ hoạt động công nghiệp và sinh hoạt, xác chết động thực vật, rác thải đổ ra sông... c,d,e,g,i,k,l,m,o 3. Ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật, hoá chất. - Thuốc bảo vệ thực vật: Trừ sâu, diệt cỏ, nấm.... g,k,l,n 4. Ô nhiễm do các chất phóng xạ. - Các chất phóng xạ: Công trường khai thác chất phóng xạ, nhà máy điện nguyên tử. d,e,g,h,k,l 5. Ô nhiễm do chất thải rắn. Chất thải rắn: Cao su, nhựa hư hỏng..... g,k,l 6. Ô nhiễm do sinh vật gây bệnh. - Sinh vật gây bệnh: Xác chết, phân rác.... c,d,e,g,k,l,m,o 7. Ô nhiễm do hoạt động tự nhiên, thiên tai. - Do hoạt động núi lửa, lũ lụt. g,k 8. Ô nhiễm tiếng ồn - Do các nhà máy, phương tiện giao thông. g,c,k,o,p b. Tích hợp kiến thức bảo vệ môi trường dưới dạng các trò chơi, hội thi tìm hiểu. Các trò chơi, hội thi tìm hiểu có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hình thành ý thức bảo vệ môi trường vì: - Gây hứng thú cho HS khi nghiên cứu vấn đề về BVMT. - Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đối với những vấn đề về BVMT. - Giúp học sinh mở rộng và nâng cao kiến thức về BVMT. - Phát triển khả năng giao tiếp, khả năng làm việc hợp tác nhóm nhỏ. - Hình thành khả năng tự học, tự nghiên cứu. Để tổ chức giáo dục BVMT dưới hình thức này giáo viên cần tuân thủ các bước sau đây: Bước 1: Xác định tên chủ đề. Bước 2: Xác định mục tiêu, nội dung. Bước 3: Xác định thời gian, địa điểm. Bước 4: Thành lập nhóm giám khảo Bước 5: Tuyên truyền phát động trò chơi, hội thi. Bước 6: Thiết kế chương trình. Bước 7: Chuẩn bị cơ sở vật chất - thiết bị Bước 8: Tiến hành trò chơi, hội thi. Bước 9: Tổng kết, rút kinh nghiệm. Ví dụ: Dạy bài 62: Thực hành vận dụng luật bảo vệ môi trường vào việc bảo vệ môi trường ở địa phương (Sinh học 9) Hoạt động 1: Giáo viên nêu mục tiêu và yêu cầu bài học Hoạt động 2: Tổ chức thực hành. - Giáo viên chia học sinh làm 4 tổ. - Giao nhiệm vụ cho mỗi tổ. + T
Tài liệu đính kèm:
- skkn_tich_hop_kien_thuc_bao_ve_moi_truong_trong_day_hoc_sinh.doc