SKKN Tích hợp giáo dục môi trường và kỹ năng sống cho học sinh lớp 9 trường THCS Xuân Dương trong dạy tiết 65 – đại số

SKKN Tích hợp giáo dục môi trường và kỹ năng sống cho học sinh lớp 9 trường THCS Xuân Dương trong dạy tiết 65 – đại số

Tích hợp trong dạy học đòi hỏi việc học tập ở nhà trường phổ thông phải được gắn với các tình huống của cuộc sống sau này mà học sinh có thể phải đối mặt và chính vì thế nó trở nên có ý nghĩa đối với học sinh. Như vậy, việc tích hợp trong dạy học sẽ phát huy tối đa sự trưởng thành và phát triển cá nhân mỗi học sinh, giúp các em thành công trong vai trò người chủ gia đình, người công dân, người lao động tương lai.

Với xã hội hiện đại, học sinh đang bị ảnh hưởng rất lớn từ: Sự tác động của các thiết bị điện tử; chất lượng cuộc sống của gia đình tốt hơn nên các em được chu cấp đầy đủ hơn, vì thế mà đa số thích nhàn hạ cho bản thân, sa vào lối sống thực dụng mà thiếu đi khả năng rèn luyện, không có động cơ phấn đấu trong học tập, không có ý thức bảo vệ môi trường, thiếu kỹ năng sống, có nhận thức sai lệch trong ứng xử, trong sinh hoạt. Vì thế việc tích hợp trong dạy học là một xu hướng đúng đắn và rất cần thiết.

Trong các môn học thì Toán học là một môn học khó đối với học sinh vì tính trừu tượng, logic đặc trưng của nó. Chủ yếu chú trọng rèn luyện cho học sinh kỹ năng tính toán, tư duy suy luận logic. Nên trong nội dung chương trình SGK, việc liên hệ đến thực tiễn chưa phong phú và không rõ ràng, chưa thực sự gắn với thực tiễn của đối tượng học sinh, của vùng miền, sự thay đổi của xã hội. Nên không dễ ràng thực hiện tích hợp giáo dục học sinh trong giảng dạy môn toán.

Bằng kinh nghiệm nhiều năm trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, tôi nghĩ: Để đạt được hiệu quả cao trong mỗi tiết dạy toán giáo viên cần phải thay đổi hình thức chuyển giao nhiệm vụ học tập tới học sinh sao cho hấp dẫn hơn để kích thích hứng thú của các em trong học tập. Muốn làm được điều đó thì người thầy cần phải gắn nội dung dạy học vào thực tiễn, vào những vấn đề xã hội đang được quan tâm, rồi qua nội dung dạy học vừa truyền đạt được kiến thức cho học sinh, vừa giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường và rèn luyện kỹ năng sống.

Vì những lí do trên đây tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Tích hợp giáo dục môi trường và kỹ năng sống cho HS lớp 9 trường THCS Xuân Dương trong dạy

 

doc 21 trang thuychi01 8546
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tích hợp giáo dục môi trường và kỹ năng sống cho học sinh lớp 9 trường THCS Xuân Dương trong dạy tiết 65 – đại số", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
TÍCH HỢP GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG VÀ KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH LỚP 9 TRƯỜNG THCS XUÂN DƯƠNG TRONG DẠY TIẾT 65 – ĐẠI SỐ
Người thực hiện: Lê Thị Liên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Xuân Dương
SKKN thuộc môn: Toán
THANH HOÁ NĂM 2019
	MỤC LỤC	
Mục
Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lí do chọn đề tài.
1
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
4
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
15
3. Kết luận, kiến nghị
17
3.1. Kết luận.
17
3.2. Kiến nghị
17
Tài liệu tham khảo
18
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Tích hợp trong dạy học đòi hỏi việc học tập ở nhà trường phổ thông phải được gắn với các tình huống của cuộc sống sau này mà học sinh có thể phải đối mặt và chính vì thế nó trở nên có ý nghĩa đối với học sinh. Như vậy, việc tích hợp trong dạy học sẽ phát huy tối đa sự trưởng thành và phát triển cá nhân mỗi học sinh, giúp các em thành công trong vai trò người chủ gia đình, người công dân, người lao động tương lai.
Với xã hội hiện đại, học sinh đang bị ảnh hưởng rất lớn từ: Sự tác động của các thiết bị điện tử; chất lượng cuộc sống của gia đình tốt hơn nên các em được chu cấp đầy đủ hơn, vì thế mà đa số thích nhàn hạ cho bản thân, sa vào lối sống thực dụng mà thiếu đi khả năng rèn luyện, không có động cơ phấn đấu trong học tập, không có ý thức bảo vệ môi trường, thiếu kỹ năng sống, có nhận thức sai lệch trong ứng xử, trong sinh hoạt. Vì thế việc tích hợp trong dạy học là một xu hướng đúng đắn và rất cần thiết.
Trong các môn học thì Toán học là một môn học khó đối với học sinh vì tính trừu tượng, logic đặc trưng của nó. Chủ yếu chú trọng rèn luyện cho học sinh kỹ năng tính toán, tư duy suy luận logic. Nên trong nội dung chương trình SGK, việc liên hệ đến thực tiễn chưa phong phú và không rõ ràng, chưa thực sự gắn với thực tiễn của đối tượng học sinh, của vùng miền, sự thay đổi của xã hội. Nên không dễ ràng thực hiện tích hợp giáo dục học sinh trong giảng dạy môn toán. 
Bằng kinh nghiệm nhiều năm trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, tôi nghĩ: Để đạt được hiệu quả cao trong mỗi tiết dạy toán giáo viên cần phải thay đổi hình thức chuyển giao nhiệm vụ học tập tới học sinh sao cho hấp dẫn hơn để kích thích hứng thú của các em trong học tập. Muốn làm được điều đó thì người thầy cần phải gắn nội dung dạy học vào thực tiễn, vào những vấn đề xã hội đang được quan tâm, rồi qua nội dung dạy học vừa truyền đạt được kiến thức cho học sinh, vừa giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường và rèn luyện kỹ năng sống.
Vì những lí do trên đây tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Tích hợp giáo dục môi trường và kỹ năng sống cho HS lớp 9 trường THCS Xuân Dương trong dạy tiết 65 - Đại số . 
	1.2. Mục đích nghiên cứu.
	Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn toán lớp 9 qua việc xây dựng hình thức chuyển giao nhiệm vụ học tập gắn với thực tiễn đời sống. Tăng cường nhận thức của học sinh về vấn đề bảo vệ môi trường, nhận biết - hình thành kỹ năng sống cần thiết.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Cơ sở lý luận về đổi mới phương pháp, ảnh hưởng của xã hội hiện đại tới HS để xây dựng các bài toán thực tiễn phù hợp; Phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình – Đại số lớp 9. Một số kỹ năng sống cần thiết.
	1.4. Phương pháp nghiên cứu
	+ Nghiên cứu lý luận
	+ Điều tra thực tế
	+ Thực nghiệm sư phạm
	2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
	2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
	Trong bài "Đổi mới căn bản, toàn diện để hoàn thiện một nền giáo dục và đào tạo Việt Nam nhân bản" (Tạp chí Cộng sản, số 885-7/2016), Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh: "Ngày nay, khi tri thức đã trở thành yếu tố hàng đầu để phát triển kinh tế tri thức thì các nước trên thế giới đều ý thức được rằng giáo dục là đòn bẩy quan trọng để đổi mới mô hình tăng trưởng và phát triển xã hội bền vững". Nhận thức sâu sắc về điều đó, việc đổi mới tư duy giáo dục trong thời đại tri thức nhằm đáp ứng sự thay đổi của cuộc sống là một tất yếu, bởi vì "khi hệ thống tri thức có những thay đổi thì sớm hoặc muộn, nhanh hoặc chậm, năng lực tư duy và hoạt động của con người cũng phải thay đổi. Đời sống hiện thực biến đổi luôn đặt ra những vấn đề mới, buộc con người phải suy nghĩ, tìm kiếm những lời giải đáp và những phương tiện để giải quyết vấn đề. Những tri thức mới ra đời bổ sung và bồi đắp cho hệ thống tri thức đã có, làm thay đổi cách nhìn nhận, thay đổi từng phần thế giới quan, dẫn đến thay đổi cả phương thức hoạt động của con người và cộng đồng. Điều đó cũng có nghĩa rằng, những tri thức mới đã làm thay đổi tư duy của con người" (Lương Đình Hải - Triết học trong kỷ nguyên toàn cầu - NXB Khoa học xã hội, 2009).
	Như vậy, thuận theo sự phát triển của xã hội, đối tượng dạy học cũng thay đổi, những cách tiếp cận theo lối cũ phần nào đã không có hiệu quả cao. Do đó, đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi sáng tạo, thay đổi hình thức chuyển giao nhiệm vụ sao cho kích thích được hứng thú cho học sinh mà tự giác lĩnh hội tri thức, đáp ứng nhân tố con người mới trong xã hội hiện nay.
	Song song với lĩnh hội tri thức, thì việc hình thành kỹ năng sống rất quan trọng vì: nói tới kỹ năng sống không đơn giản chỉ ở nhận thức, mà cao hơn nữa con người còn biết tích cực vận dụng những kiến thức đã học vào xử lý các tình huống thực tiễn có hiệu quả, qua đó giúp con người sống vui vẻ, có ý nghĩa hơn.
	 Đồng thời, xã hội hiện đại đang tác động rất lớn tới học sinh, có những ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hình thành nhân cách, kỹ năng sống của học sinh: Học sinh lười đọc sách, báo, sa vào tương tác ảo, mất dần khả năng tương tác trực tiếp, cách ứng xử cũng thay đổi có những hành vi không phù hợp với chuẩn mực đạo đức. Xã hội hiện đại cũng đang tác động tiêu cực tới môi trường hiện nay: Nguồn nước bị ô nhiễm, thiên tai, lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên hơn, trái đất đang nóng lên làm băng tan, nước biển dâng.nhưng đại bộ phận học sinh có thái độ thờ ơ với sự biến đổi tiêu cực của môi trường. 
	Bởi vậy, trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và kỹ năng sống cho học sinh là một điều rất cần thiết.
	2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong chương trình phân môn đại số lớp 9, thì giải toán bằng cách lập phương trình là một dạng toán khó, mới mẻ. Vì học sinh chỉ quen tính giá trị của biểu thức hay giải phương trình đã cho sẵn. Nên khi gặp một bài toán có lời văn, phải phân tích bài toán, gọi ẩn, đặt điều kiện cho ẩn, tìm mối liên hệ giữa ẩn và các đại lượng đã biết để lập phương trình và trả lời bài toán là một công việc rất khó khăn. Đồng thời, những bài toán trong sách giáo khoa chưa mang tính thực tiễn hoặc mang tính thực tiễn nhưng lại mang tính chung cho tất cả đối tượng vùng miền nên khi đọc đề, học sinh chưa được tác động mạnh mẻ tới hứng thú, tới tư duy, chưa gợi được sự tò mò muốn tìm hiểu của học sinh. Hoặc có giải xong, trả lời được bài toán thì học sinh cũng không rút ra được ý nghĩa thực tiễn phục vụ cho cuộc sống hiện tại hay sau này của bản thân mình.
Trong khi đó đa số giáo viên khi giảng dạy học sinh luyện tập giải loại toán này chỉ thực hiện được mục tiêu là giúp học sinh giải được các bài toán, mà chưa chú trọng tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường và kỹ năng sống cho học sinh thông qua bài toán. 
Trong năm học 2016 – 2017 tôi đã tiến hành khảo sát học sinh khối 9 ( 55 em) bằng các phiếu và kết quả như sau:
+ Phiếu khảo sát thái độ của HS đối với dạng toán này:
Giải bài toán bằng cách lập phương trình
Khó
Dễ
Thích học
Không thích học
50
5
5
50
+ Phiếu khảo sát rút ra ý nghĩa thực tiễn sau khi giải xong 3 bài toán: 45, 46, 47 – SGK – Trang 59: 
Bài toán
Ý nghĩa thực tiễn
45. Tích của hai số tự nhiên liên tiếp lớn hơn tổng của chúng là 109. Tìm hai số đó.
Không có ý nghĩa thực tiễn
55 HS =100%
46. Một mảnh đất hình chữ nhật có diện tích 240m2. Nếu tăng chiều rộng 3m và giảm chiều dài 4 m thì diện tích mảnh đất không đổi. Tính kích thước của mảnh đất đó.
- Có kỹ năng tính được diện tích mảnh đất dạng hình chữ nhật và biết cách thay đổi chiều dài rộng của nó sao cho diện tích không đổi.
- Không có câu trả lời.
 25 HS = 45,5 %
30 HS = 54,5 %
47. Bác Hiệp và cô Liên đi xe đạp từ nhà lên tỉnh trên quãng đường dài 30km, khởi hành cùng một lúc. Vận tốc xe của bác Hiệp lớn hơn vận tốc xe của cô Liên là 3km/h nên bác Hiệp đã đến tỉnh trước cô Liên nửa giờ. Tính vận tốc xe của mỗi người.
- Tính được vận tốc khi biết quãng đường và thời gian đi.
55 HS = 100 %
+ Phiêu khảo sát chất lượng giải bài toán bằng cách lập phương trình:
Stt
Lớp
Sĩ số
Môn
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
1
9A
30
Toán
7
23,3
10
33,3
12
40,1
1
3,3
0
0
2
9B
25
Toán
0
0
2
8
18
72
5
20
0
0
3
Khối
55
Toán
7
12,7
12
21,8
30
54,5
6
10,9
0
0
Như vậy, tôi nhận thấy:
Thứ nhất, giải bài toán bằng cách lập phương trình là một dạng toán khó học sinh không muốn học do không giải được, nên chất lượng chưa cao.
Thứ hai, nội dung cụ thể 3 bài toán trên chưa có ý nghĩa liên hệ thực tiễn hoặc có ý nghĩa nhưng việc liên hệ chưa mang tính giáo dục sâu sắc: 
Từ đó, trong tiết dạy 65 – Bài luyện tập ( giải bải bài toán bằng cách lập phương trình) – Đại số lớp 9, mà muốn nâng cao chất lượng lĩnh hội kiến thức, kỹ năng về giải bài toán bằng cách lập phương trình và liên hệ được thực tiễn để giáo dục kỹ năng sống và ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh, thì giáo viên cần thiết phải thay đổi hình thức chuyển giao nhiệm vụ tới học sinh sao cho hấp dẫn, cuốn hút học sinh, giáo dục được học sinh thông qua nội dung bài toán xuất phát từ thực tiễn.
	2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1: Chuyển nội dung bài toán đã cho trong SGK thành các bài toán thực tế gần gũi hơn đối với học sinh. Điều này sẽ tác động tích cực tới học sinh, làm các em quan tâm và có nhu cầu giải quyết vì tò mò từ đó rèn luyện được kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình.
*Bài 45 – SGK – Trang 59: Tích của hai số tự nhiên liên tiếp lớn hơn tổng của chúng là 109. Tìm hai số đó.
Được chuyển thành bài toán liên hệ thực tiễn ( giáo dục kỹ năng sống) như sau:
 Bài tập 1: Vừa qua Tỉnh ta đã khảo sát về thực trạng HS sử dụng điện thoại di động. Biết số học sinh được khảo sát lớn hơn số học sinh sử dụng điện thoại di động là 50 học sinh, tích số học sinh được khảo sát và số học sinh sử dụng điện thoại di động lớn hơn tổng của chúng là 948050 học sinh. Tìm số học sinh sử dụng điện thoại di động.
Nội dung của bài toán cũng yêu cầu tìm hai số nhưng sẽ tác động mạnh tới học sinh, vì: Điện thoại di động đang là mối quan tâm hàng đầu của học sinh, là một sản phẩm công nghệ hấp dẫn mà học sinh hiện nay đang tìm mọi cách để được sử dụng. Do đó, học sinh sẽ tò mò muốn biết tỉ lệ sử dụng điện thoại di động của lứa tuổi mình là bao nhiêu mà dẫn tới có nhu cầu giải quyết bài toán.
*Bài 46 – SGK – Trang 59: Một mảnh đất hình chữ nhật có diện tích 240m2. Nếu tăng chiều rộng 3m và giảm chiều dài 4 m thì diện tích mảnh đất không đổi. Tính kích thước của mảnh đất đó.
Được chuyển thành bài toán liên hệ thực tiễn ( giáo dục ý thức bảo vệ môi trường) như sau: 
Bài tập 2: Nhà Lan có một mảnh đất đồi hình chữ nhật, định trồng cây keo theo hàng và mỗi hàng trồng cùng một số cây. Sau khi ước lượng Lan đã mua 240 cây. Nhưng lúc tiến hành trồng thì chiều dài mảnh đất không phù hợp với số cây dự định trồng trên mỗi hàng ban đầu. Lan đã tính lại, sẽ tăng thêm 3 hàng, và mỗi hàng giảm đi 4 cây thì số cây mua về là vừa đủ. Hỏi ban đầu Lan định trồng bao nhiêu hàng và mỗi hàng có bao nhiêu cây ?
Vẫn là rèn luyện kỹ năng tính toán như tính diện tích hình chữ nhật để tìm mỗi quan hệ giữa các đại lượng mà lập nên phương trình, giải quyết yêu cầu bài toán, nhưng khác ở chỗ là bài toán gần gũi với thực tiễn hơn và hứng thú hơn vì: trong lớp có nhà em Lan và nhiều nhà học sinh trồng cây keo, là một việc làm gần gũi và muốn biết bạn Lan đã dự định trồng cây như thế nào -> Học sinh sẽ tập trung giải quyết bài toán
* Bài 47 – SGK – Trang 59: Bác Hiệp và cô Liên đi xe đạp từ nhà lên tỉnh trên quãng đường dài 30km, khởi hành cùng một lúc. Vận tốc xe của bác Hiệp lớn hơn vận tốc xe của cô Liên là 3km/h nên bác Hiệp đã đến tỉnh trước cô Liên nửa giờ. Tính vận tốc xe của mỗi người.
Được chuyển thành bài toán liên hệ thực tiễn (giáo dục học sinh chấp hành Luật an toàn giao thông) như sau: 
Bài tập 3: Một bạn học sinh lớp 9 được bố đèo về quê bằng xe máy. Quãng đường từ nhà về quê dài 120 km. Lúc về bố cho bạn cầm lái. Bạn đi với vận tốc lớn hơn vận tốc bố đi là 20km/h nên thời gian lúc về ít hơn thời gian lúc đi là 1 giờ. Hãy tính vận tốc xe của mỗi người ?
Bài toán này vừa đáp ứng được yêu cầu về kiến thức, kỹ năng cần truyền đạt, rèn luyện cho học sinh như bài toán 47. Nhưng khác ở chỗ đối tượng chuyển động trong bài toán là một học sinh lớp 9 không những chưa được phép đi xe máy, mà còn đi với vận tốc lớn hơn vận tốc bố đi. Do đó khơi gợi được sự quan tâm của các em, muốn biết bạn này đã đi với vận tốc bao nhiêu km/h và tại sao cô giáo lại đưa ra bài toán này ? -> Học sinh sẽ tập trung giải quyết bài toán.
(Với bài toán 3, bản thân tôi cũng hơi boăn khoăn: Liệu có nên đưa bài toán vi phạm Luật ATGT để giảng dạy học sinh hay không ? Nhưng vấn đề một số học sinh THCS đã đi xe máy là một vấn đề thực tế có thật ở nhiều địa phương. Nên tôi đã mạnh dạn đưa vào tiết học này để từ đó tích hợp giáo dục học sinh sẽ hiệu quả hơn).
Giải pháp 2: Sau khi rèn luyện kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình, từ những vấn đề thực tiễn của từng bài toán mà giáo viên liên hệ để giáo dục kỹ năng sống và ý thức bảo vệ môi trường qua kênh hình ảnh, diễn biến cụ thể xảy ra trong đời sống xã hội, trong tự nhiên.
Từ bài tập 1: Giáo viên đưa ra những vấn đề:
- Những ảnh hưởng tiêu cực của điện thoại di động đối với học sinh về:
+ Sức khỏe
+ Học tập
- Liên hệ với tình trạng sử dụng điện thoại trong nhà trường.
- Giáo dục kỹ năng sử dụng điện thoại hợp lí để không ảnh hưởng tới sức khỏe, tới học tập.
Từ bài tập 2: Giáo viên đưa ra những vấn đề:
- Thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay và những tiêu cực của nó tới đời sống con người.
- Vai trò của cây xanh trong chống sói mòn, lũ lụt, điều hòa khí hậu.
- Giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường bằng những việc làm phù hợp với lứa tuổi, với nơi mình đang sống.
Từ bài tập 3: Giáo viên đưa ra những vấn đề:
- Việc chấp hành an toàn giao thông của hai bố con trong bài toán.
- Những hậu quả của việc không chấp hành luật an toàn giao thông.
- Liên hệ việc chấp hành luật an toàn giao thông trong Nhà trường.
- Giáo dục ý thức chấp hành luật an toàn giao thông, đề phòng để không có tai nạn đáng tiếc xảy ra.
Cụ thể tôi đã tiến hành dạy học tiết 65 – Đại số lớp 9 như sau:
Tiết 65 	 	 LUYỆN TẬP
I. MỤC TIÊU. 
1. Kiến thức:
- Khắc sâu phương pháp giải bài toán bằng cách lập phương trình.
- Có thêm hiểu biết về điện thoại di động, ô nhiễm môi trường, an toàn giao thông.
2. Kỹ năng: 
- Rèn luyện kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình qua bước phân tích đề bài, tìm ra mối liên hệ giữa các dữ kiện trong bài toán để lập phương trình. Biết trình bày lời giải của một bài toán bậc hai. 
- Có kỹ năng tránh lệ thuộc vào điện thoại di động, biết cách bảo vệ sức khỏe bản thân trước tác hại của điện thoại, ô nhiễm môi trường, đề phòng tai nạn giao thông. Có ý thức góp phần bảo vệ môi trường.
3.Thái độ: tích cực hợp tác tham gia hoạt động học.
II. CHUẨN BỊ.
Giáo viên: Máy chiếu, Thước, máy tính bỏ túi
Học sinh: Máy tính bỏ túi, thước kẻ, bảng nhóm. Làm đủ các bài tập giáo viên yêu cầu
III. TIẾN TRÌNH DẠY - HỌC.
1. Kiểm tra: 
 Nêu các bước để giải một bài toán bằng cách lập phương trình?
 2. Luyện tập: 
Hoạt động của GV và HS
Yêu cầu cần đạt
GV chiếu đề bài tập 1 lên màn hình
 HS đọc đề bài 
GV yêu cầu một HS tóm tắt đề bài
HS tóm tắt.
GV hướng dẫn HS thực hành giải:
? Hãy nêu cách chọn ẩn và đặt điều kiện cho ẩn ?
HS: Gọi số học sinh sử dụng điện thoại di động là x (x N*)
? Vậy số HS được khảo sát được biểu thị như thế nào ?
HS: x + 50
 ? Từ điều kiện nào ta lập được phương trình ? Nêu phương trình lập được.
HS: Vì tích số học sinh được khảo sát và số học sinh sử dụng điện thoại di động lớn hơn tổng của chúng là 948050 học sinh nên ta có phương trình:
x.(x + 50) – (x + x + 50) = 948050
GV: Hãy giải phương trình và trả lời bài toán.
1 HS lên bảng trình bày, lớp làm vào vở
HS nhận xét, GV sửa chữa bổ sung nếu cần.
Tích hợp giáo dục kỹ năng sống:
GV: Vậy, khảo sát 1000 em thì có tới 950 em sử dụng điện thoại di động, đây là một tỉ lệ lớn.
Cũng theo kết quả khảo sát thì ( chiếu trên màn hình): 20% học sinh có cảm giác bất an, lo sợ, bứt dứt khi không có điện thoại di động trong túi và 8% học sinh rơi vào trạng thái nghiện điện thoại di động. Nhiều em giao dịch đến hơn 50 tin nhắn và 30 cuộc gọi mỗi ngày. 
Theo các em, thì sử dụng điện thoại di động nhiều có ảnh hưởng xấu gì tới sức khỏe và học tập ?
HS trả lời
GV: chốt lại ( chiếu trên màn hình)
*Ảnh hưởng xấu tới sức khỏe nói chung:
+ Ánh sáng xanh của điện thoại làm tăng nguy cơ ung thư
+ Điện thoại ảnh hưởng tới giấc ngủ vì những dòng photon phát ra từ điện thoại làm não tỉnh táo. Dẫn tới hội chứng mất ngủ triền miên.
+ Ánh sáng xanh từ điện thoại gây thoái hóa hoàng điểm và nhiều bệnh về mắt.
+ Gây trầm cảm, lo âu: do tia bức xạ kích thích căng thẳng thần kinh não, từ đó làm chúng ta luôn có cảm giác hồi hộp lo âu.
+ Các bệnh viêm nhiễm da
+ Gây tổn thương các khớp xương tay, lưng và cổ.
+ Làm giảm trí nhớ: Trong tia bức xạ 2 phút, khả năng phòng vệ của não sẽ mất đi tác dụng dẫn đến các bệnh thần kinh và các bệnh về não như giảm trí nhớ trầm trọng, bệnh pakison và làm tăng cao nguy cơ về các bệnh xơ cứng.
+ Suy giảm hệ thống miễn dịch.
+ Giảm chất lượng tinh trùng: Nếu nam giới luôn để điện thoại trong túi quần có thể bị vô sinh.
Ngoài ra đối với học sinh chúng ta còn:
+ Tai nạn: Do vừa lái xe vừa sử dụng.
+ Gây cảm giác cô đơn: Vì ưu tiên chơi với bạn bè qua mạng hơn là gặp gỡ trực tiếp, ít kết nối với các thành viên trong gia đình.
+ Bắt nạt trên mạng: là hành động sử dụng công nghệ thông tin để làm tổn hại hay quấy rối người khác một cách chủ ý. 
*Ảnh hưởng tới học tập: Thiếu tập trung trong học tập do đó ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập.
GV: Tình trạng sử dụng điện thoại di động trong trường ta như thế nào ?
HS: trả lời
GV Chốt lại: Nhà trường đã không cho phép các em đem điện thoại đến trường. Nhưng vẫn còn một số bạn lén lút sử dụng điện thoại bằng mọi cách. Và chắc chắn rằng về nhà các em vẫn sử dụng điện thoại thường xuyên. Qua phân tích tác hại của điện thoại vừa rồi, thì: Không nên sử dụng điện thoại quá nhiều, chỉ nên nghe và gọi. Nếu các em vẫn không thể cự tuyệt được, gia đình không kiểm soát được, thì cần lưu ý: (chiếu lên máy)
+ Không sử dụng điện thoại trong bóng tối.
+ Trước khi đi ngủ 1 giờ nên tắt điện thoại. Không để điện thoại trên đầu giường.
+ Không nên để điện thoại trong túi quần, nhất là các bạn nam.
+ Khi sạc điện thoại không nên sử dụng.
+ Khi học bài không để điện thoại bên cạnh vì nó làm chúng ta mất tập trung trong học tập.
+ Không sử dụng mạng xã hội để quấy rối, bôi nhọ người khác.
GV đưa bài toán 2 lên màn hình
HS đọc đề bài 
GV yêu cầu một HS tóm tắt đề bài
HS tóm tắt.
GV hướng dẫn HS thực hành giải:
Gọi số hàng ban đầu là x thì số cây trên mỗi hàng được biểu thị như thế nào ?
Nếu tăng lên 3 hàng, giảm đi 4 cây trên mỗi hàng ta có số hàng và số cây trên hàng như thế nào ?
Với số cây trồng không đổi ta có phương trình nào ?
Em nào giải được PT này?
Đối chiếu với điều kiện thì nghiệm nào thỏa mãn?
Ta kết luận 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_giao_duc_moi_truong_va_ky_nang_song_cho_hoc_si.doc