SKKN Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9

SKKN Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9

 Hóa Học là môn khoa học thực nghiệm, kiến thức Hóa Học được vận dụng rất nhiều trong thực tế cuộc sống và trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó Có liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã hội- môi trường như: Sản xuất lương thực, thực phẩm, may mặc, sức khỏe, vật liệu, an ninh, quốc phòng, Đặc biệt, có khả năng phát huy sự hiểu biết của học sinh đối với thế giới bên ngoài nếu giáo viên biết khai thác, lồng ghép, tích hợp liên hệ các câu hỏi, bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy và học. Trong phương châm giáo dục hiện nay, trước hết tạo điều kiện cho học sinh việc “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tế”; tạo cho học sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập. Xây dựng cho các em thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo, lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, tự thu thập thông tin và phân tích thông tin, vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Giúp cho các em có nhiều hiểu biết về tự nhiên và hoạt động của nó, tác động của nó đối với cuộc sống con người, đặc biệt là đối với môi trường. Từ đó, giáo dục cho các em ý thức bảo vệ môi trường.

 Trong những năm gần đây, vấn đề liên hệ trong thực tiễn vào bài giảng đã có áp dụng, song ít được mọi người quan tâm. Phần vì giáo viên chưa chịu khó sưu tầm các hiện tượng bên ngoài thực tế, phần vì do thời gian tiết dạy có hạn (45 phút). Nên phần lớn giáo viên tập trung đi sâu vào phần nội dung lý thuyết của bài, thời gian dành cho việc liên hệ vào thực tế còn hạn chế. Do đó, học sinh chỉ lĩnh hội kiến thức suông, không biết vận dụng những kiến thức đã học để giải thích một số hiện tượng thực tiễn trong đời sống, sản xuất; hoặc chỉ vận dụng một cách máy móc. Chính vì thế, trong quá trình học tập học sinh dễ bị nhàm chán, khô khan, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của bộ môn.

 Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Hóa học đã nhiều năm, tôi thực sự trăn trở về điều này và tôi thấy rằng, ngoài việc phát huy tốt các phương pháp giảng dạy tích cực thì vấn đề quan trọng không thể thiếu được đó là: Cần khai thác thêm các hiên tượng hóa học trong thực tiễn đưa vào bài giảng, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, tự tin, tạo ra niềm vui, hứng thú trong học tập. Với lí do trên, tôi dã tìm tòi, nghiên cứu, tham khảo tài liệu và áp dụng với đề tài: “Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9 ”

 

doc 18 trang thuychi01 23795
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
	Hóa Học là môn khoa học thực nghiệm, kiến thức Hóa Học được vận dụng rất nhiều trong thực tế cuộc sống và trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó Có liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã hội- môi trường như: Sản xuất lương thực, thực phẩm, may mặc, sức khỏe, vật liệu, an ninh, quốc phòng, Đặc biệt, có khả năng phát huy sự hiểu biết của học sinh đối với thế giới bên ngoài nếu giáo viên biết khai thác, lồng ghép, tích hợp liên hệ các câu hỏi, bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy và học. Trong phương châm giáo dục hiện nay, trước hết tạo điều kiện cho học sinh việc “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tế”; tạo cho học sinh sự hứng thú, hăng say trong học tập. Xây dựng cho các em thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo, lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, tự thu thập thông tin và phân tích thông tin, vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Giúp cho các em có nhiều hiểu biết về tự nhiên và hoạt động của nó, tác động của nó đối với cuộc sống con người, đặc biệt là đối với môi trường. Từ đó, giáo dục cho các em ý thức bảo vệ môi trường.
	Trong những năm gần đây, vấn đề liên hệ trong thực tiễn vào bài giảng đã có áp dụng, song ít được mọi người quan tâm. Phần vì giáo viên chưa chịu khó sưu tầm các hiện tượng bên ngoài thực tế, phần vì do thời gian tiết dạy có hạn (45 phút). Nên phần lớn giáo viên tập trung đi sâu vào phần nội dung lý thuyết của bài, thời gian dành cho việc liên hệ vào thực tế còn hạn chế. Do đó, học sinh chỉ lĩnh hội kiến thức suông, không biết vận dụng những kiến thức đã học để giải thích một số hiện tượng thực tiễn trong đời sống, sản xuất; hoặc chỉ vận dụng một cách máy móc. Chính vì thế, trong quá trình học tập học sinh dễ bị nhàm chán, khô khan, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của bộ môn.
	Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Hóa học đã nhiều năm, tôi thực sự trăn trở về điều này và tôi thấy rằng, ngoài việc phát huy tốt các phương pháp giảng dạy tích cực thì vấn đề quan trọng không thể thiếu được đó là: Cần khai thác thêm các hiên tượng hóa học trong thực tiễn đưa vào bài giảng, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, tự tin, tạo ra niềm vui, hứng thú trong học tập. Với lí do trên, tôi dã tìm tòi, nghiên cứu, tham khảo tài liệu và áp dụng với đề tài: “Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa Học 9 ”
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 	Đề tài này được thực hiện với mục đích giúp học sinh xây dựng hệ thống một số hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào các bài giảng trong chương trình Hóa Học 9, giúp các em giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín, dị đoan, góp phần nâng cao hứng thú và kết quả học tập môn hóa học. Đồng thời đề tài cũng làm rõ ý nghĩa khoa học hóa học có thể ứng dụng thực tiễn trong đời sống hàng ngày, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng thú trong môn học, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong tình hình đất nước hiện nay.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Đối tượng nghiên cứu đề tài là các hiện tượng hóa học diễn ra trong thực tiễn liên quan đến chương trình lớp 9, được kiểm chứng qua 2 năm học ở trường THCS Hoằng Phúc
Cụ thể: Năm học 2014-2015: Lớp 9 có 30 học sinh
 Năm học 2015-2016: Lớp 9 có 30 học sinh
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: 
 	+ Nghiên cứu Luật giáo dục, các văn bản về đổi mới chương trình, phương pháp dạy học
	+ Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học, phương pháp dạy học tích cực của bộ môn Hóa Học
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
	+ Quan sát, điều tra, khảo sát, phỏng vấn
	+ Qua thực trạng dạy học Hóa 9 ở trường THCS Hoằng Phúc
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
 Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất các các quốc gia trên thế giới đều coi là chiến lược của dân tộc mình. Vì thế trong đại hội Đảng lần IX, Đảng ta ghi rõ: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai của một dân tộc, một quốc gia phải nhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó. 
 Ở nước ta, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học giáo dục được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình, học để cùng chung sống.
 Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển như vũ bão, nền kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang tính giáo dục, vừa mang tính giáo dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡng hướng thiện khoa học. 
	Bộ môn hoá học trong trường THCS giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành... Học Hoá để hiểu, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học... Đồng thời là khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Kiến thức Hóa Học góp phần giải tỏa, xóa bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người. Mặt khác, làm cho các em thấy được đây là môn học rất gần gũi với các em. 
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG
	Qua thực tế giảng dạy cho thấy, môn Hóa Học là một trong những môn học mới, lạ đối với học sinh THCS. Ngay từ đầu, đòi hỏi học sinh có sự tưởng tượng vào thế giới vi mô, thế giới những hạt vô cùng nhỏ, đó là: phân tử, nguyên tử, Vì vậy, nếu không có những bài giảng và phương pháp phù hợp thì dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận kiến thức. Đã có hiện tượng một số học sinh không muốn học, ngày càng xa rời với giá trị thực tiễn của Hóa Học.
	Trước đây, khi chưa thay sách giáo khoa, chưa đổi mới phương pháp dạy học, người dạy thực hiện phương pháp dạy học “Thuyết trình kết hợp với đàm thoại”. Nhưng thực chất là “Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận ghi nhớ” là chủ yếu,. Dạy học theo kiểu áp đặt, nhồi nhét, lý thuyết suông Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục, còn sử dụng đồng loạt một cách dạy, một bài giảng cho nhiều thế hệ, nhiều lớp khác nhau. Với lối dạy đó không thể thực hiện được mục tiêu của ngành giáo dục đề ra. Đồng thời, không thể đáp ứng được yêu cầu của xã hội trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
	Trong thực tế cuộc sống hàng ngày nhiều hiện tượng nhiên, nhiều vấn đề xã hội diễn ra xung quanh chúng ta cần phải được học sinh vận dụng kiến thức khoa học liên môn mới giải quyết được; nó liên quan đến hóa học, vật lý, sinh học, địa lý vv. Lâu nay việc sưu tầm các hiện tượng, vấn đề đó đang còn xem nhẹ dẫn đến học sinh hiểu vấn đề một cách phiến diện hoặc giải quyết không thỏa mãn triệt để.
	Thực trạng ở trường THCS Hoằng Phúc: số học sinh ít, số giáo viên bộ môn biên chế ít nên rất khó khăn trong việc trao đổi kinh nghiệm giảng dạy; chỉ mới có phòng học bộ môn chung môn sinh học, chưa có phòng thực hành riêng cho bộ môn, cơ sở vật chất chưa đủ (một số hóa chất còn thiếu hoặc có nhưng đã bị biến chất; chưa có giáo viên chuyên trách thí nghiệm nên rất vất vả cho giáo viên bộ môn trong quá trình chuẩn bị đồ dùng, thí nghiệm dạy học. Mặt khác, là địa phương thuần nông nên kinh tế gia đình của học sinh còn nhiều khó khăn, do đó việc mua sắm tài liệu còn hạn chế, thậm chí sách giáo khoa còn không đủ nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh. Bản thân học sinh lại chưa nắm vững vai trò bộ môn, cũng như chưa có định hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập bộ môn chưa cao, đang còn xem nhẹ bộ môn.
	Đặc biệt, qua các kỳ thi khảo sát chất lượng học kỳ, thi học sinh giỏi các cấp thì vấn đề liên hệ thực tế có liên quan đến kiến thức Hóa Học ít được chú ý. Chính vì vậy, giáo viên bộ môn ít quan tâm đến vấn đề “Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng” để hướng dẫn học sinh vận dụng.
Kết quả khảo sát chất lượng môn hóa học học sinh lớp 9 đầu năm học trước khi thực hiện đề tài:	
Năm học
Lớp
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2015-2016
9(30)
2
6,7
5
16,7
13
43,3
7
23,3
3
10
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
* Các giải pháp:
	Để thực hiện tốt được vấn đề “Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng Hóa Học 9 ” đòi hỏi giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm; tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế có liên quan đến bài học, hình thành bài giảng theo hướng phát huy tích cực, chủ động của học sinh. Song phải mang tính chất hợp lý, hài hòa, đôi lúc có khôi hài nhưng vẫn đảm bảo được mục đích, tiêu chí, nội dung của bài dạy. Tuy nhiên, thời gian dành cho vấn đề này không nhiều (ví như thứ gia vị trong đời sống, không thể thay thế cho thức ăn, nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống)
	Trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã sử dụng các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng bằng cách:
1/ Đặt tình huống vào bài mới:
	Tiết dạy có gây được sự chú ý của học sinh hay không phụ thuộc vào người dạy rất nhiều. Trong đó, phần mở đầu đặc biệt quan trọng. Nếu ta biết đặt ra một tình huống thực tiễn yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu, giải thích qua bài học sẽ tạo được sự chú ý, cuốn hút học sinh trong quá trình học tập.
2/ Sử dụng trong giảng dạy bài mới :
Trong các giờ giảng bài mới, giáo viên có thể linh hoạt nhiều phương pháp khác nhau để kết hợp các kiến thức thực tiễn vào bài giảng, thuận lợi nhất là hai phương pháp tích hợp và lồng ghép.
Phương pháp Tích hợp: là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức hóa học với kiến thức thực tiễn, làm cho chúng hòa quyện vào nhau thành một thể thống nhất.
 Ví dụ: Khi giảng bài về “Các oxit của cacbon”, bên cạnh giảng về vai trò làm chất khử của CO trong công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp luyện kim, giáo viên cần kết hợp với kiến thức về khả năng gây ngộ độc của CO, triệu chứng bị ngộ độc. Các nguồn sinh ra CO thường có trong cuộc sống để phòng tránh. Hoặc khi giảng về khí CO2, song song với việc giảng về vai trò của CO2 đối với quá trình quang hợp của cây xanh, đồng thời giáo viên phải đề cập đến vấn đề gây “hiệu ứng nhà kính” của CO2, và giáo dục học sinh nên trồng cây xanh, bảo vệ rừng để bảo vệ môi trường và cuộc sống.
 Phương pháp Lồng ghép: là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt cấu trúc để có thể đưa vào bài học một đoạn, một mục, một số câu hỏi có nội dung liên quan đến thực tiễn, hoặc những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể đan xen vào tiết học. Cách này có thể tạo không khí học tập thoải mái, kích thích niềm đam mê hứng thú bộ môn.
3/ Nêu hiện tượng thực tiễn thông qua các bài tập tính toán: nhằm giúp học sinh lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích, hiểu được bài toán yêu cầu gì và giải quyết như thế nào? Từ đó hiểu được cách tiết kiệm nguyên liệu, sử dụng nguyên liệu đúng cách
4/ Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống thường ngày sau khi đã kết thúc bài học: Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó. Học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi “ vì sao lại có hiện tượng đó”? Tạo tiền đề thuận lợi cho khi học bài mới tiếp theo.
5/ Hướng dẫn tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn ở gia đình, địa phương, sau khi đã học, tìm hiểu, nghiên cứu qua một nội dung, một vấn đề hóa học trong bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thề làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hóa học vào đời sống thực tiễn. 
6/ Lồng ghép, tích hợp vấn đề môi trường trong bài dạy:
	Vấn đề môi trường: nước, không khí, đất,đang được con người nhắc đến rất nhiều. Trong cuộc sống hàng ngày các hiện tượng thường xuyên bắt gặp như: nước thải của một ao cá, chuồng heo, chuồng gà,; khói bụi của các lò gạch, nhà máy xay lúa, các cánh đồng sau thu hoạch,có liên quan gì đến những diễn biến bất thường của thời tiết hiện nay không? Giáo viên dạy học bộ môn Hóa có thể lồng ghép các hiện tượng đó vào phần sản xuất các chất, hay ứng dụng của một số chất, Ngoài việc gây sự chú ý của học sinh trong tiết dạy còn phải giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho từng học sinh. Tùy vào thực trạng của từng địa phương mà ta lấy các hiện tượng cho cụ thể và gần gũi với học sinh.
Ví dụ: Khi giảng về độ pH của dung dịch ta có thể hỏi học sinh “Vì sao chúng ta lại bị sâu răng? Đặc biệt là khi ăn các thức ăn ngọt?” Hay khi dạy về sự thủy phân của các muối giáo viên có thể đặt câu hỏi “Vì sao phèn chua lại có thể làm trong nước”, “ tại sao NH4HCO3 được dùng làm bột nở ?”.Giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh vận dụng các kiến thức trong bài để giải quyết vấn đề đặt ra và bổ sung thêm cho học sinh những kiến thức có liên quan đến vấn đề đó nhưng không nằm trong phạm vi kiến thức hóa học như vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe,.
7/ Tích hợp trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá:
Trong giờ bài tập, giáo viên có thể đưa vào các bài tập có nội dung thực tiễn mà học sinh có thể vận dụng được những kiến thức trong nội dung luyện tập để giải quyết những kiến thức thực tiễn có liên quan.
Ví dụ: Khi dạy phần luyện tập về Clo, có thể đưa ra bài tập sau: Trong phòng thí nghiệm (hoặc nhà máy sản xuất giấy) khi bị ngộ độc Clo người ta sơ cứu bằng cách cho nạn nhân ngửi khí nào?
A. H2	B. NH3	 C. O2	D. N2 
8/ Sử dụng thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa:
	Giáo viên hóa học nên tổ chức cho học sinh các câu lạc bộ hóa học, các buổi ngoại khóa về hóa học, các cuộc thi hóa học vui,. nhằm tạo điều kiện cho học sinh vận dụng những kiến thức hóa học vào cuộc sống, tạo niềm hứng thú và say mê hóa học, đồng thời kích thích học sinh lòng ham hiểu biết, hình thành cho học sinh thói quen luôn thắc mắc, đặt vấn đề đối với những hiện tượng trong cuộc sống và phải  tìm cách giả quyết cho được các vấn đề đó.
 *CỤ THỂ MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HỌA:
 Hệ thống các hiện tượng hóa học trong thực tiễn tích hợp vào bài giảng Hóa học 9 
 CHƯƠNG I: Các hợp chất vô cơ
Hiện tượng1: Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt, nước vôi như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người và động vật. 
Giải thích: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit: 
CaO + H2O Ca(OH)2
Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo cả những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra nhiều nên nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố vôi để tránh rơi xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.
 Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài ở Bài 2: Một số Oxit quan trọng
Hiện tượng2: “Mưa axit” là gì ? Tác hại của nó như thế nào ?
Giải thích: - Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ôtô, xe máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2,Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2 O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. 
 Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO3):
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Ngày nay, hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đă gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề ô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất chú trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể đặt câu hỏi trên liên hệ tích hợp môi trường trong Bài 2: Một số Oxit quan trọng, ý thứ 2 có thể liên hệ khi học bài 29: Axit Cacbonic và muối Cacbonat.
Hiện tượng 3: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày? 
 Giải thích: Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng: 
 NaHCO3 + HCl NaCl + CO2 + H2O
 Giáo viên có thể vận dụng kiến thức này vào bài 2: Một số axit quan trọng hoặc bài 29: Muối Cacbonat
Hiện tượng 4: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?
Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến, nhện (hay một số con khác) có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của bazơ ở Bài 7: Tính chất hóa học của Bazơ
Hiện tượng 5: Tại sao ăn trầu phải có đủ cau, trầu và vôi, nhất là không thể thiếu vôi ? 
Giải thích: Trong lá trầu có chứa tinh dầu, trong hạt cau có chứa một chất gọi là arecolin, chất này có tính độc. Không có vôi miếng trầu không thể chuyển sang màu đỏ, vôi là chất kiềm khi tác dụng với arecolin làm chất này chuyển thành arecaidin không độc mà có tác dụng gây hưng phấn, ấm áp làm cho da mặt hồng hào, môi đỏ thắm, chống cảm cúm, diệt khuẩn làm sạch miệng, làm chặt chân răng.
 Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần tích hợp bảo vệ sức khỏe ở Bài 8: Một số Bazơ quan trọng
Hiện tượng 6: Bột nở là chất gì mà có thể làm cho bánh to ra và xốp được ? 
Giải thích: (NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm bột mì hoặc các bột khác, lúc nướng bánh (NH4)2CO3 phân hủy thành các chất khí và hơi làm cho bánh xốp và nở.
(NH4)2CO3 2NH3 + CO2 + H2O 
 Giáo viên có thể tích hợp vào Bài 9: Tính chất hóa học của muối
Hiện tượng7: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng, lâu ngày thấy xuất hiện lớp cặn ở đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này như thế nào ? 
 Giải thích: Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học: 
Ca(HCO3)2 → CaCO3↓ + CO2↑ + H2O
Mg(HCO3)2 → MgCO3↓ + CO2↑ + H2O
Do CaCO3 và MgCO3 sinh ra đóng cặn. 
Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH3COOH 5%) và rượu, đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là sạch.
Giáo viên có thể tích hợp vào trong bài 9:Tính chất hóa học của muối ( hay bài 29: Muối các bonat). Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũng góp phần cho học sinh hiểu bản chất của vế đề có trong đời sống hàng ngày, học sinh có thể ứng dụng trong gia đình mình, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm tự làm được.
Hiện tượng 8: Ca dao Việt Nam có câu: 
“Lúa chim lấp ló ngoài bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu ca dao đó mang ý nghĩa hóa học gì ?
Giải thích: Câu ca dao có nghĩa là: Khi vụ lúa chiêm đang trổ đồng mà có trận mưa rào kèm theo sấm chớp thì rất tốt và cho năng suất cao. Vì sao vậy ?
Do trong không khí có khoảng 80% Nitơ và 20 % oxi. Khi có sấm chớp (tia lửa điện) thì:
Sau đó: 2NO + O2 → 2NO2
Khí NO2 hòa tan trong nước: 4NO2 + O2 + H2O → 4HNO3
HNO3 hòa tan trong đất được trung hòa bởi một số muối tạo muối nitrat cung cấp Nitơ cho cây.
Nhờ có sấm chớp ở các cơn mưa giông, mỗi năm trung bình mỗi mẫu đất được cung cấp khoảng 6-7 kg nitơ.
Đây là một câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn rất thường gặp trong đời sống, quả là một kinh nghiệm được ông cha ta rút ra qua những tháng năm canh tác nông nghiệp. Học sinh cũng dễ dàng quan sát để kiểm nghiệm và giải thích được một cách khoa học về vấn đề trên. Giáo viên có thể đề cập trong bài 11: Phân bón hóa học
 Hệ thống các hiện tượng tích hợp trong những bài giảng 
CHƯƠNG II: K

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tich_hop_cac_hien_tuong_hoa_hoc_trong_thuc_tien_vao_bai.doc