SKKN Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng kỹ thuật bỏ bớt chất

SKKN Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng kỹ thuật bỏ bớt chất

“Tạo hứng thú học tập cho học sinh” là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Đây là công việc thể hiện tâm và tài của người giáo viên – người giữ vai trò định hướng, chèo lái con thuyền tri thức cho các thế hệ học trò. Công việc này phù hợp với tinh thần của phương pháp dạy học mới, nhằm định hướng cho học sinh cách ghi nhớ và khắc sâu kiến thức bài học cũng như có được sự chủ động và tâm thế cho các giờ học tiếp theo. Qua thực tế, tôi thấy việc “tạo hứng thú học tập cho học sinh” chưa được đầu tư thỏa đáng và không phải bài học nào cũng thực sự được chú trọng. Đây cũng là lí do khiến không ít học sinh rất sợ gặp những bài tập dạng mới, phức tạp và cũng chẳng hào hứng khi vào học bài mới. Và điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả giờ học nói chung, giờ học Hoá học nói riêng.

Trong những năm qua, ngành Giáo dục nước nhà đang có những thay đổi hết sức lớn lao, trong đó có đổi mới phương pháp dạy học. Thiết nghĩ, việc “tạo hứng thú học tập môn Hoá học cho học sinh” chính là góp phần vào công cuộc đổi mới chung, cũng là góp phần nâng cao chất lượng giờ học Hoá học. Từ những vấn đề trên, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc tìm tòi phương pháp dạy - học thích hợp cho học sinh, tạo hứng thú cho học sinh trong học tập và đặc biệt là nâng cao kết quả trong kỳ thi THPT quốc gia sắp tới của các em nên tôi mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng kỹ thuật bỏ bớt chất"

 

doc 23 trang thuychi01 4860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng kỹ thuật bỏ bớt chất", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
_____________________________________________
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
 BẰNG KỸ THUẬT BỎ BỚT CHẤT
Người thực hiện: Dương Đình Luyến
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Hóa học
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
 TT
Mục 
Trang
I
MỞ ĐẦU
1
1.1
Lý do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
1
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
II
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
2.1
Cơ sở lý luận
3
2.2
Thực trạng
4
2.3
Các giải pháp đã sử dụng
5
2.3.1
Kỹ thuật bỏ bớt chất áp dụng trong bài tập hóa vô cơ
5
2.3.2 
Kỹ thuật bỏ bớt chất áp dụng trong bài tập hóa hữu cơ
13
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
19
III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
20
3.1
Kết luận
20
3.2
Kiến nghị
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
“Tạo hứng thú học tập cho học sinh” là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Đây là công việc thể hiện tâm và tài của người giáo viên – người giữ vai trò định hướng, chèo lái con thuyền tri thức cho các thế hệ học trò. Công việc này phù hợp với tinh thần của phương pháp dạy học mới, nhằm định hướng cho học sinh cách ghi nhớ và khắc sâu kiến thức bài học cũng như có được sự chủ động và tâm thế cho các giờ học tiếp theo. Qua thực tế, tôi thấy việc “tạo hứng thú học tập cho học sinh” chưa được đầu tư thỏa đáng và không phải bài học nào cũng thực sự được chú trọng. Đây cũng là lí do khiến không ít học sinh rất sợ gặp những bài tập dạng mới, phức tạp và cũng chẳng hào hứng khi vào học bài mới. Và điều đó đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả giờ học nói chung, giờ học Hoá học nói riêng. 
Trong những năm qua, ngành Giáo dục nước nhà đang có những thay đổi hết sức lớn lao, trong đó có đổi mới phương pháp dạy học. Thiết nghĩ, việc “tạo hứng thú học tập môn Hoá học cho học sinh” chính là góp phần vào công cuộc đổi mới chung, cũng là góp phần nâng cao chất lượng giờ học Hoá học. Từ những vấn đề trên, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc tìm tòi phương pháp dạy - học thích hợp cho học sinh, tạo hứng thú cho học sinh trong học tập và đặc biệt là nâng cao kết quả trong kỳ thi THPT quốc gia sắp tới của các em nên tôi mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng kỹ thuật bỏ bớt chất”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp học sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, từ đó “tạo hứng thú học tập cho học sinh”, nâng cao kết quả trong các kỳ thi, nâng cao chất lượng dạy và học.
- Giúp học sinh tự hình thành tri thức, có năng lực tư duy, không ngừng tìm tòi ra các kỹ thuật giải toán hóa học mới.
- Đề tài này cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên giảng dạy bộ môn Hoá học.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Kỹ thuật bỏ bớt chất trong giải toán hóa học giúp học sinh trường THPT Nguyễn Trãi giải nhanh những bài tập TNKQ khó, thiếu dữ kiện.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	- Trên cơ sở hệ thống kiến thức sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo và thông qua kinh nghiệm học tập giảng dạy của bản thân, xây dựng các phương pháp giải toán mới và một số bài tập vận dụng.
	- Phương pháp thực nghiệm và thống kê. Thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính thực tiễn và hiệu quả của phương án đã đề xuất.
	- Tổ chức dạy và đánh giá tại trường THPT Nguyễn Trãi.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
Sự hứng thú không phải là một thành phần bất biến đặc trưng cho bất kì một môn học nào cả. Bởi, nếu nói học sinh học kém Hóa học vì đó là môn khó thì tại sao vẫn có những học sinh khác học giỏi hóa học và luôn yêu thích nó? Vì vậy, tác nhân gây mất hứng thú chắc chắn không thể thuộc về bản thân môn học, mà nó nằm ở những nguyên nhân khác.
- Do không hiểu bài: Không hiểu bài, các em sẽ thấy khó khăn, và khi thấy khó khăn thì học sinh sẽ không thể nắm bắt được, vì không thể nắm bắt được nên các em cảm thấy mọi thứ đều mơ hồ, không rõ ràng, và vô hướng. Do đó, các em đương nhiên không thể có hứng thú học và kết quả học tập luôn đi xuống là điều dễ hiểu. 
- Do phương pháp giảng dạy: Đôi khi không có hứng thú học cũng bắt nguồn từ công tác giảng dạy. Chúng ta cần phải ý thức lại về việc giảng dạy. Giáo viên, trước hơn hết phải là người gợi mở, dẫn dắt và phải tạo được sự hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Không những thế, ngày nay các giáo viên còn mắc một lỗi phổ biến khiến các em không hứng thú học đó là: thiếu tính sáng tạo trong giảng dạy. Khi phải học bởi kiểu giảng dạy chỉ có đọc và chép từ tập giáo trình đã mấy năm không soạn lại thì chắc hứng thú của các em đều chìm vào giấc ngủ từ khi nào rồi. Vấn đề này đòi hỏi sự cải thiện rất nhiều từ đội ngũ giáo viên.
Với môn Hóa học – một môn Khoa học tự nhiên khô khan, đầy những con số, thì người giáo viên càng cần phải sáng tạo trong phương pháp giảng dạy để HS có được sự tích cực, chủ động, từ đó tháo gỡ những khó khăn trong học tập đặc biệt là trong các bài toán khó. Điều này sẽ góp phần động viên cổ vũ tinh thần của các em, tạo hứng thú trong học tập, say mê nghiên cứu, tìm tòi phát hiện và giải quyết vấn đề đặt ra.
 Đối với các bài toán đơn giản thì các em có thể giải một lần là nhớ, nhưng với những bài tập Hoá học phức tạp, thiếu dữ kiện thì việc đưa ra các phương pháp giải phù hợp, đơn giản giúp nhiều học sinh có thể giải được thì đòi hỏi mỗi nhà giáo phải không ngừng đổi mới tìm tòi. Trên thực tế, các dạng bài tập đề cho thiếu dữ kiện khiến học sinh trung bình khó đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, nếu như thầy cô hướng dẫn cho các em một số kỹ thuật để có thể giải được bài tập loại này, thì chắc chắn sẽ tăng hứng thú cho học sinh. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng chung: Trong quá trình giảng dạy bộ môn Hoá học ở trường phổ thông, tôi nhận thấy đối với dạng bài tập đề cho số dữ kiện ít hơn số ẩn (nhiều chất mà số dữ kiện lại ít), để giải bài tập loại này thường phải sử dụng các định luật, định lý cơ bản như bảo toàn electron, bảo toàn nguyên tố, bảo toàn khối lượng  và các kỹ thuật như quy đổi, ghép ẩn Tuy nhiên đối với học sinh trung bình và khá thì việc vận dụng được các điều nói trên là hết sức khó khăn.
Đối với học sinh: 
Trước hết phải công nhận một sự thực là học sinh của chúng tôi có năng lực tư duy hạn chế hơn một số các học sinh trường bạn (do chất lượng đầu vào còn thấp) nên việc tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn chế.
Đối với học sinh trung bình và học sinh khá, việc vận dụng nhiều kỹ thuật và định luật bảo toàn khi giải toán mà số lượng chất nhiều trong khi số dữ kiện đề bài cho thì ít hơn, sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đối với đa số học sinh khi giải toán hóa học, các em thường chỉ quen và làm tốt các bài toán có số dữ kiện và số ẩn bằng nhau để các em lập hệ phương trình rồi giải.
Đối với giáo viên: 
Trong các giờ ôn tập, luyện thi không có nhiều thời gian để giải đi giải lại các dạng bài tập loại này, hơn nữa kiến thức khó và rộng, phải sử dụng nhiều định luật, định lý bảo toàn mà việc nhận biết các định luật này cũng là cả một việc khó đối với các em, do đó học sinh dễ rơi vào tình trạng buông xuôi, không có hứng thú với những bài tập dạng này.
Vậy làm sao để các em có thể biết cách giải quyết các dạng bài tập này một cách dễ dàng, qua đó giúp các em có hứng thú hơn trong học tập môn hoá học, rút ngắn được thời gian giải bài tập, nâng cao điểm số trong các kỳ thi có sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi đã đưa ra kỹ thuật bỏ bớt chất để giúp các em có thể giải bài toán khó một cách dễ dàng. Sau một thời gian áp dụng tôi nhận thấy vấn đề này là khá mới và có ý nghĩa thực tiễn vậy nên tôi đã lấy làm sáng kiến kinh nghiệm cho bản thân. Với hy vọng đề tài sẽ góp phần nhỏ vào việc dạy và học hóa học ở trường phổ thông hiện nay.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng 
2.3.1. Kỹ thuật bỏ bớt chất áp dụng trong bài tập hóa vô cơ.
	- Với kỹ thuật bỏ bớt chất, chúng ta hầu như giữ lại đề, chỉ bỏ bớt số chất đề bài cho phù hợp (bằng) với số dữ kiện của đề bài. Đây là kỹ thuật thực hiện khá đơn giản, áp dụng được cho nhiều đối tượng học sinh có thể làm được thậm chí là cả những học sinh THCS. Học sinh chỉ cần biết đặt ẩn và giải hệ phương trình cùng với những kỹ năng tối thiểu của người học hóa học như sử dụng các công thức tính toán và kỹ thuật tính theo phương trình.
- Điều kiện để giải bài toán theo kỹ thuật này là bài toán phải có đáp số cụ thể (tức là bài toán phải có khả năng giải được).
- Một số lưu ý khi thực hiện kỹ thuật bỏ bớt chất :
+ Bỏ bớt 1 hoặc 1 vài chất sao cho đảm bảo nguyên tắc “bao nhiêu ẩn số phải có bấy nhiêu phương trình”
+ Chất bỏ đi không làm thay đổi bản chất của bài toán hoặc vi phạm các điều kiện cơ bản như làm mất đi dữ kiện cụ thể của đề bài.
+ Không được thay đổi số dữ kiện đề bài đã cho.
Ví dụ 1. Hoà tan hoàn toàn 2,81g hỗn hợp gồm Fe2O3, MgO, ZnO trong 500 ml dung dịch H2SO4 0,1M (vừa đủ). Sau phản ứng, cô cạn dung dịch thu được muối khan có khối lượng là
A. 6.81g	 B. 4,81g	 C. 3,81g D. 5,81g
Phân tích: 
Với bài toán trên, nếu ta đặt số mol các chất trong hỗn hợp lần lượt là x, y và z thì ta chỉ lập được 2 phương trình toán học là : 
 160x + 40y + 81z = 2,81 (1)
Và: 3x + y + z = 0,05. (2)
Việc giải hệ phương trình toán học trên để tìm giá trị của x, y và z là việc không thể do số ẩn nhiều hơn số phương trình. Đối với những HS có lực học trung bình đến đây sẽ thấy bế tắc trong phương hướng tìm lời giải cho bài toán.
Tuy nhiên, muốn tìm được khối lượng muối ta chỉ cần tìm được giá trị của biểu thức : m = 400x + 120y + 161z.
Muốn vậy chúng ta phải sử dụng đến kỹ thuật ghép ẩn, phân tích biểu thức cần tìm ra các biểu thức giá trị đã có:
Ta có: m = 400x + 120y + 161z = 160x + 40y + 81z + 240x + 80y + 80z
Từ đó: 
m = (160x + 40y + 81z) + 80(3x + y + z) = 2,81 + 80.0,05 = 6,81→ đáp án A
Bên cạnh đó chúng ta cũng có thể sử dụng thêm các phương pháp khác như bảo toàn khối lượng hoặc tăng giảm khối lượng. Tuy nhiên với những HS có năng lực tư duy và nền tảng toán học yếu hơn thì việc tiếp thu được các phương pháp nêu trên là rất khó khăn dẫn đến sự chán nản và bỏ cuộc.
Nếu chúng ta dùng kỹ thuật bỏ bớt chất trong hỗn hợp thì việc giải bài toán trên lại trở nên hết sức đơn giản. Thậm chí cả HS THCS cũng có thể vận dụng được.
Thật vậy, để cho số chất bằng với số dữ kiện của đề bài chúng ta bỏ bớt hỗn hợp đi một chất, chẳng hạn bỏ bớt ZnO ta còn Fe2O3 và MgO.
Dễ dàng lập được hệ PT : 160x + 40y = 2,81 và 3x + y = 0,05
Giải ra: x = 0,02025; y = -0,01075
Vậy khối lượng muối = 400x + 120y = 400.0,02025 -120.0,01075 = 6,81.
Hoàn toàn tương tự nếu ta bỏ bớt Fe2O3 hoặc MgO thì đều không làm thay đổi kết quả bài toán.
 Ví dụ 2. Hòa tan 5,73 gam hỗn hợp X gồm NaH2PO4, Na2HPO4 và Na3PO4 vào nước dư thu được dung dịch Y. Trung hòa hoàn toàn Y cần 75 ml dung dịch NaOH 1M, thu được dung dịch Z. Khối lượng kết tủa thu được khi cho Z tác dụng hết với dung dịch AgNO3 dư là
	A. 12,57 gam.	B. 16,776 gam.	C. 18,855 gam.	D. 18,385 gam.
Hướng dẫn:
	Bỏ bớt Na3PO4 cho dễ, hỗn hợp chỉ có NaH2PO4 và Na2HPO4 với số mol lần lượt là x và y.
	Ta có hệ phương trình: 120x + 142y = 5,73 và 2x + y = 0,075
Giải ra x = 0,03, y = 0,015 → Tổng số mol PO43- = Ag3PO4 = 0,045 mol
Khối lượng kết tủa = 0,045.419 = 18,855 gam → đáp án C
Ví dụ 3. Hoà tan hoàn toàn 3,22g hỗn hợp X gồm Fe, Mg và Zn bằng một lượng vừa đủ H2SO4 loãng thấy thoát 1,344 lít H2 (ở đktc) và dung dịch chứa m gam muối. Giá trị của m là
A. 10,27g	 B. 8.98	 C. 7,25g	 D. 9,52g
Hướng dẫn:
Bỏ bớt Zn, hỗn hợp chỉ có Fe và Mg
Hệ PT có được: 56x + 24y = 3,22 và x + y = 0,06
Giải ra được: x = 0,055625 và y = 0,004375
Khối lượng muối thu được: m = 152x + 120y = 8,98g → đáp án B
Ví dụ 4. Hòa tan hoàn toàn m gam hỗn hợp X gồm K, K2O, KOH, KHCO3 và K2CO3 trong lượng vừa đủ dung dịch HCl 14,6%, thu được 6,72 lít (đktc) hỗn hợp gồm hai khí có tỉ khối so với hidro là 15 và dung dịch Y có nồng độ 25,084%. Cô cạn dung dịch Y được 59,6 gam muối khan. Giá trị của m gần nhất với
A. 36 B. 46 C. 28 D. 37
Phân tích: 
Đây là bài toán khá khó đối với nhiều học sinh có học lực trung bình và khá. Việc vận dụng các kỹ thuật toán học là khá phức tạp. Tuy nhiên nếu vận dụng kỹ thuật bỏ bớt chất thì bài toán sẽ trở nên đơn giản đi rất nhiều.
Với bài toán này ta không được bỏ đi K hay KHCO3 vì sẽ làm mất bản chất của bài toán. Đề bài cho ta hỗn hợp 2 khí xác định (H2 và CO2) và có số mol và khối lượng cụ thể. Do đó nếu bỏ K hoặc KHCO3 thì chỉ còn có một khí. 
Chúng ta bỏ bớt K2CO3 cho dễ. Hỗn hợp chỉ có K, K2O, KOH và KHCO3
Số mol KCl = 0,8 nên HCl phản ứng = 0,8 mol. Khối lượng HCl = 29,2 gam. 
Hai khí thu được là H2 và CO2. Số mol H2 = 0,1 còn CO2 = 0,2
Suy ra: nK = 0,2, KHCO3 = 0,2. 
Số mol H2O tạo ra = 0,8 – 0,2 - số mol KHCO3 = 0,4
BTKL: m + 29,2 = 0,3.30 + 59,6 + 18.0,4 
Vậy m = 46,6 gam → đáp án B
Ví dụ 5. Hòa tan 23,8 g hỗn hợp muối cacbonat của kim loại hóa trị I và muối cacbonat của kim loại hóa trị II vào dung dịch HCl dư thì thu được 4,4 g khí. Nếu cô cạn dung dịch sau phản ứng thì thu được m gam muối khan. Giá trị của m gần nhất với
A. 26 B. 23 C. 24 D. 25
Hướng dẫn:
Bỏ bớt 1 muối, giả sử hỗn hợp chỉ có MCO3.
Số mol CO2 = 4,4/44 = 0,1 mol
Suy ra số mol MCO3 = 0,1.
Vậy MCO3 = 23,8/0,1 = 238 => M = 238-60 = 178
Muối thu được là MCl2 với số mol = 0,1 mol
Từ đó: m = 0,1(178+71) = 24,9 gam → đáp án D.
* Một số bài toán tương tự:
Bài 1. Hoà tan 17,5 gam hợp kim Zn – Fe –Al vào dung dịch HCl dư thu được V lít H2 (đktc) và dung dịch A. Cô cạn A thu được 31,7 gam hỗn hợp muối khan. Giá trị của V là
A. 1,12 lít B. 3,36 lít C. 4,48 lít D. 2,24 lít
Hướng dẫn:
Chúng ta bỏ bớt kim loại Al, hỗn hợp chỉ có Zn và Fe
Hệ PT lập được là : 65x + 56y = 17,5 và 136x +127 y = 31,7
Giải ra: x = 0,7 và y = - 0,5
Ta có: số mol H2 = x + y = 0,2 mol
Vậy: V = 4,48 lít → đáp án C
Bài 2. Hòa tan hoàn toàn 8,94 g hỗn hợp gồm Na, K và Ba vào nước thu đc dung dịch X và 2,688 lít khí H2 (đktc). Dung dịch Y gồm HCl và H2SO4 tỉ lệ tương ứng là 4 : 1. Trung hòa vừa đủ dung dịch X bởi dung dịch Y, tổng khối lượng các muối tạo ra là
	A. 13,70g	B. 12,78g	C. 18,46g	D. 14,26g
Hướng dẫn:
Chúng ta bỏ bớt Na đi, hỗn hợp chỉ có K và BaO.
Ta có: 39x + 137y = 8,94 (1)
Và: 0,5x + y = 0,12 (2)
Giải ra ta được: x = 15/59 và y = -21/2950
Vậy, tổng số mol OH- = x + 2y = 0,24 mol
Trung hòa vừa đủ nên tổng số mol H+ = OH- = 0,24 mol
Đặt số mol H2SO4 = a thì số mol HCl = 4a.
Suy ra: 2a + 4a = 0,24=> a = 0,04
Tổng khối lượng muối thu được: 
m = 39.15/59 – 137.21/2950 + 35,5.0,16 + 96.0,04 = 18,46 gam → đáp án C
Bài 3. Hỗn hợp X gồm Na, Ca, Na2O, CaO. Hòa tan hết 51,3 gam hỗn hợp X vào nước thu được 5,6 lít H2 (đktc) và dung dịch kiềm Y trong đó có 28 gam NaOH. Hấp thụ 17,92 lít khí SO2 (đktc) vào dung dịch Y thu được m gam kết tủa. Giá trị của m là
A. 72 gam	B. 60 gam 	C.96 gam	D. 54 gam
Hướng dẫn:
Do đề bài cho ta 4 chất, trong khi dữ kiện chỉ có 3 (đó là khối lượng hỗn hợp = 51,3 gam; thể tích H2 = 5,6 lít và khối lượng NaOH = 28 gam). Do vậy ta sẽ bỏ bớt đi 1 chất để cho số chất và số dữ kiện của đề bằng nhau.
Ta bỏ bớt Na, hỗn hợp chỉ có Ca, Na2O và CaO với số mol lần lượt là x, y và z.
Ta có: x = 0,25, y = 0,35 vậy z = (51,3-10-21,7)/56 = 0,35
Vậy tổng số mol OH- = 2x + 2y + 2z = 1,9 mol
Số mol SO2 = 0,8. 
Suy ra số mol SO32- = 0,8, trong khi đó số mol Ca2+ = x + z = 0,6 mol.
Vậy khối lượng kết tủa bằng 0,6.120 = 72 gam → đáp án A
Bài 4. Hỗn hợp X gồm Na, Ba, Na2O và BaO. Hòa tan hoàn toàn 21,9 gam X vào nước, thu được 1,12 lít khí H2 (đktc) và dung dịch Y chứa 20,52 gam Ba(OH)2. Cho Y tác dụng với 100 ml dung dịch Al2(SO4)3 0,5M, thu được m gam kết tủa. Giá trị của m là
A. 27,96. B. 29,52. C. 36,51. D. 1,50.
Hướng dẫn:
Tương tự bài toán trên, chúng ta bỏ bớt Na2O. Hỗn hợp chỉ có Na, Ba và BaO với số mol lần lượt là x, y và z.
Ta có : 23x + 137y + 153z = 21,9; x/2 + y = 0,05 và y + z = 0,12
Giải ra: x = 0,14, y = -0,02 và z = 0,14. 
Vậy số mol Ba2+ = 0,14-0,02 = 0,12 mol. OH- = 0,14 + 0,12.2 = 0,38 mol
Số mol Al3+ = 0,1 mol, SO42- = 0,15 mol
Kết tủa: BaSO4 = Ba2+ = 0,12 mol
Al(OH)3 = 4Al3+ - OH- = 0,02 mol.
Vậy m = 0,12.233 + 0,02.78 = 29,52 gam → đáp án B
	Bài 5. Cho 86,3 gam hỗn hợp X gồm Na, K, Ba và Al2O3 (trong đó oxi chiếm 19,47% về khối lượng) tan hết vào nước, thu được dung dịch Y và 13,44 lít khí H2 (đktc). Cho 3,2 lít dung dịch HCl 0,75M vào dung dịch Y. Sau khi các phản ứng xảy ra hoàn toàn, thu được m gam kết tủa. Giá trị của m là
 A. 10,4 B. 27,3 C. 54,6 D. 23,4
Hướng dẫn:
Bỏ bớt K ta còn Na, Ba và Al2O3. Bài này chúng ta không được bỏ Al2O3 vì như vậy sẽ không còn nguyên tố O trong hỗn hợp nữa!
Khối lượng O = 86,3.19,47% = 16,8 gam =>Số mol O = 1,05 mol. 
Vậy số mol Al2O3 = 0,35 mol =>Khối lượng Al2O3 = 35,7 gam
Ta có : 0,5x + y = 0,6 và 23x + 137y = 86,3-35,7 = 50,6
Giải ra: x = 316/455 và y = 23/91
Số mol OH- = x + 2y = 316/455 + 46/91 = 1,2 mol 
Al2O3 + 2OH- → 2AlO2- + H2O
Số mol AlO2- = 0,7 → OH- dư = 0,5
Số mol HCl = 2,4 mol
OH- + H+ → H2O 
 0,5 → 0,5 
AlO2- + H+ + H2O → Al(OH)3 
0,7 → 0,7 → 0,7 
Al(OH)3 + 3HCl → AlCl3 + 3H2O
 0,4 ← 1,2
Vậy Al(OH)3 còn = 0,3 mol.
Suy ra: m = 0,3.78 = 23,4 gam → đáp án D
Bài 6. Hỗn hợp X gồm MgO, CaO, Mg và Ca. Ḥòa tan 21,44 gam hỗn hợp X bằng dung dịch HCl vừa đủ thu được 6,496 lít H2 (đktc) và dung dịch Y trong đó có 24,70 gam MgCl2 và x gam CaCl2. Giá trị của x là 
A. 29,97 gam	B. 31,08 gam C. 32,19 gam D. 34,41 gam 
Hướng dẫn:
Bỏ bớt MgO chẳng hạn.
Dễ dàng lập được các PT: 56x + 24y + 40z = 21,44 (1)
Số mol H2 = y + z = 0,496/22,4 = 0,29 (2)
Số mol MgCl2 = y = 24,7/95 = 0,26 (3)
Từ (1), (2) và (3) ta có : x = 0,25, y = 0,26 và z = 0,03
Suy ra số mol CaCl2 = x + z = 0,28 
Vậy khối lượng CaCl2 = 0,28.111 = 31,08 gam → đáp án B
Bài 7. Cho 23,2 gam hỗn hợp X gồm FeO, Fe2O3 và Fe3O4 trong đó số mol FeO bằng Fe2O3. Số mol HCl cần dùng để phản ứng với hỗn hợp X trên là
	A. 0,4 B. 0,6 C. 0,8 D. 1,0
Hướng dẫn:
Bỏ bớt Fe3O4, hỗn hợp có FeO và Fe2O3.
Ta có hệ PT: 72x + 160y = 23,2
Và: x – y = 0 (do số mol FeO bằng Fe2O3)
Giải ra được: x = y = 0,1 mol
Từ đó dễ dàng tính được số mol HCl = 2x + 6y = 0,8 mol → đáp án C
Bài 8. Hỗn hợp X gồm Al, Al2O3, Fe và các oxit của sắt trong đó O chiếm 18,49% về khối lượng. Hòa tan hết 12,98 gam X cần vừa đủ 627,5 ml dung dịch HNO3 1M thu được dung dịch Y (không chứa muối Fe2+) và 0,448 lít hỗn hợp Z (đktc) gồm NO và N2 có tỉ lệ mol tương ứng là 1:1. Làm bay hơi dung dịch Y thu được m gam muối. Giá trị của m là
	A. 60,272.	B. 51,242.	C. 46,888.	D. 62,124.
Hướng dẫn:
Chúng ta có thể bỏ các oxit sắt, hỗn hợp chỉ có Al, Al2O3 và Fe.
Ta có khối lượng oxi = 12,98.18,49% = 2,4 gam
Đặt số mol Al, Al2O3 và Fe lần lượt là x, y và z
Ta có: 27x + 102y + 56z = 12,98 (1)
Số mol O: 3y = 2,4/16 = 0,15 (2)
Số mol NO = N2 = 0,01
Đặt số mol NH4NO3 = t, ta được
3x + 3z = 0,01.3 + 0,01.10 + 8t => 3x + 3z – 8t = 0,13 (3)
Bảo toàn nguyên tố nitơ ta được: 
3x + 6y + 3z + 2t + 0,01 + 0,01.2 = 0,6275 => 3x + 6y + 3z + 2t = 0,5975 (4)
Nhân PT (4) với 4 rồi cộng vào PT (3) ta được : 15x + 24y + 15z = 2,52 (5)
Giải (1), (2) và (5) được: x = -369/3625; y = 0,05; z= 688/3625 và t = 0,01675.
Vậy giá trị của m là:
m = 213.(-369/3625) + 2.213.0,05 + 242.688/3625 + 0,01675.80 = 46,888 gam
→ đáp án C
Bài 9. Lấy 14,3g hỗn hợp X gồm Mg, Al, Zn đem đốt nóng trong oxi dư, sau khi phản ứng xảy ra hoàn toàn thì nhận được 22,3g hỗn hợp Y gồm 3 oxit. Thể tích dung dịch HCl 1M tối thiểu cần dùng để hòa tan hết hỗn hợp Y là
 A. 500 ml         	B. 800 ml       	C.  1000 ml      	D.  750 ml
Hướng dẫn:
Bỏ bớt Al hỗn hợp còn Mg và Zn với số mol lần lượt là x và y
Ta có: 24x + 65y = 14,3 và 40x + 81y = 22,3
Giải ra được: x = 91/205 và y = 23/410
Vậy: nHCl = 2x + 2y = 1 mol
=> Vdd HCl = 1 lit = 1000 ml → đáp án C
	Bài 101. Hỗn hợp X gồm Na, Ba, Na2O và BaO. Hòa tan hoàn toàn 21,9 gam X vào nước, thu được 1,12 lít khí H2 (đktc) và dung dịch Y, trong đó có 20,52 gam Ba(OH)2. Hấp thụ hoàn toàn 6

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tao_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_sinh_bang_ky_thuat_bo_bot.doc