SKKN Tác động của thuốc bảo vệ thực vật đối với con người và nông nghiệp

SKKN Tác động của thuốc bảo vệ thực vật đối với con người và nông nghiệp

Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp, với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng nông nghiệp, nhưng cũng rất thuận lợi cho sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh, cỏ dại gây hại mùa màng. Do vậy việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) để phòng trừ sâu hại, dịch bệnh bảo vệ mùa màng, giữ vững an ninh lương thực quốc gia vẫn là một biện pháp quan trọng và chủ yếu. Cùng với phân bón hóa học, thuốc BVTV là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Các hóa chất thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu đã được sử dụng rộng rãi ở nước ta từ đầu những năm 1960 để tiêu diệt sâu bọ, côn trùng gây bệnh, bảo vệ mùa màng. Từ đó đến nay, thuốc BVTV vẫn gắn liền với tiến bộ sản xuất công nghiệp, quy mô, số lượng, chủng loại ngày càng tăng. Đã có hơn 100 loại thuốc được đăng ký sử dụng ở nước ta. Ngoài mặt tích cực của thuốc BVTV là tiêu diệt các sinh vật gây hại cây trồng , bảo vệ sản xuất, thuốc trừ sâu còn gây nhiều hậu quả nghiêm trọng như phá vỡ quần thể sinh vật trên đồng ruộng, tiêu diệt sâu bọ có ích (thiên địch), tiêu diệt tôm cá, xua đuổi chim chóc, phần tồn dư của thuốc bảo vệ thực vật trên các sản phẩm nông nghiệp, rơi xuống nước bề mặt, ngấm vào đất, di chuyển vào nước ngầm, phát tán theo gió gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới súc khỏe con người. Vì vậy, việc đưa ra các công cụ quản lý ảnh hưởng của thuốc trừ sâu trong môi trường là điều rất cần thiết. Tôi lựa chọn để tài "Tác động của thuốc bảo vệ thực vật đối với con người và nông nghiệp" cho sáng kiến kinh nghiệm này.

doc 20 trang thuychi01 281511
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tác động của thuốc bảo vệ thực vật đối với con người và nông nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
I. Mở đầu 2
 1.Lý do chọn đề tài ... 2
 2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 2
 3. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 2
 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 2
 5. Những điểm mới của SKKN .................................................................... 3
II. Nội dung SKKN.
 1. Cơ sở lí luận của SKKN  3-5
 2. Thực trạng của vấn đề  5-13
 3. Giải quyết vấn đề  13-18
 4. Hiệu quả của SKKN. 18
III. Kết luận và kiến nghị.
 1. Kết luận .. 18-19
 2. Kiến nghị . 19
Tài liệu tham khảo  20
I.Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp, với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng nông nghiệp, nhưng cũng rất thuận lợi cho sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh, cỏ dại gây hại mùa màng. Do vậy việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) để phòng trừ sâu hại, dịch bệnh bảo vệ mùa màng, giữ vững an ninh lương thực quốc gia vẫn là một biện pháp quan trọng và chủ yếu. Cùng với phân bón hóa học, thuốc BVTV là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Các hóa chất thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu đã được sử dụng rộng rãi ở nước ta từ đầu những năm 1960 để tiêu diệt sâu bọ, côn trùng gây bệnh, bảo vệ mùa màng. Từ đó đến nay, thuốc BVTV vẫn gắn liền với tiến bộ sản xuất công nghiệp, quy mô, số lượng, chủng loại ngày càng tăng. Đã có hơn 100 loại thuốc được đăng ký sử dụng ở nước ta. Ngoài mặt tích cực của thuốc BVTV là tiêu diệt các sinh vật gây hại cây trồng , bảo vệ sản xuất, thuốc trừ sâu còn gây nhiều hậu quả nghiêm trọng như phá vỡ quần thể sinh vật trên đồng ruộng, tiêu diệt sâu bọ có ích (thiên địch), tiêu diệt tôm cá, xua đuổi chim chóc, phần tồn dư của thuốc bảo vệ thực vật trên các sản phẩm nông nghiệp, rơi xuống nước bề mặt, ngấm vào đất, di chuyển vào nước ngầm, phát tán theo gió gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới súc khỏe con người. Vì vậy, việc đưa ra các công cụ quản lý ảnh hưởng của thuốc trừ sâu trong môi trường là điều rất cần thiết. Tôi lựa chọn để tài "Tác động của thuốc bảo vệ thực vật đối với con người và nông nghiệp" cho sáng kiến kinh nghiệm này.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích Việc thực hiện nghiên cứu đề tài nhằm củng cố kiến thức đã học, trang bị cho bản thân những kiến thức thực tiễn cần thiết,đồng thời cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về vấn đề thuốc bảo vệ thực vật và các vấn đề đối với môi trường, các loại sâu hại, các loại thuốc phòng trừ và những tác động của nó đối với môi trường,nông nghiệp
4. Phương pháp nghiên cứu:
Với đề tài này thì việc tiến hành đuợc dựa trên nhiều phương pháp như
Phương pháp thống kê nhằm thống kê sơ lược các số liệu về cấu trúc, đặc điểm của từng chất.
Phương pháp lôgic học để trình bày các vấn đề một cách mạch lạc và khoa học. Một số phương pháp khác
5. Những điểm mới của SKKN
- Sát với thực tế,nghiên cứu khoa học,đi thẳng vào vấn đề
II. Nội dung SKKN.
1. Cơ sở lí luận của SKKN
Trong hệ thống các biện pháp tổng hợp bảo vệ thực vật (BVTV), việc sử dụng thuốc BVTV từ những năm 50 cho tới nay vẫn chiếm một vai trò hết sức quan trọng, có khi quyết định. Tuy nhiên ngày càng xuất hiện tình trạng lạm dụng thuốc BVTV đem đến nhiều hệ lụy tác hại cho sản xuất, môi trường, sức khỏe cộng đồng, đe dọa sự phát triển bền vững của nông nghiệp. Vì vậy tăng cường việc quản lý sản xuất kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV là một yêu cầu đặc biệt cấp bách hiện nay ở thế giới và ở nước ta trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng quản lý và sử dụng thuốc BVTV hiện nay. Nói chung, thuốc BVTV có các ưu điểm là tác động nhanh,t triệt để, dễ sử dụng nên có thể nhanh chóng hạn chế, dập dịch, đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần quan trọng hạn chế thiệt hại do sâu bệnh gây nên, nâng cao lợi nhuận cho nhà nông.
Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc hóa học BVTV đem lại những hệ lụy xấu, tiêu cực.
- Thuốc gây độc hại cho người và gia súc, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng, làm ô nhiễm môi trường, diệt cả côn trùng và vi sinh vật có ích, từ đó tạo điều kiện cho dịch bệnh phát triển, bùng phát mạnh hơn. Dùng thuốc không đúng kỹ thuật, sẽ nhanh chóng tạo nên tính kháng thuốc của sâu bệnh, - Thuốc BVTV nhiều khi còn để lại dư lượng độc hại trên nông sản làm ngộ độc người sử dụng giảm chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản trên.
Sử dụng thuốc BVTV càng nhiều, càng rộng, càng không đúng kỹ thuật thì những nhược điểm, hạn chế, tiêu cực của thuốc càng lớn, càng nguy hại!
Trên thế giới, thuốc BVTV ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng trừ sâu bệnh bảo vệ sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm. Theo tính toán của các chuyên gia, trong những thập kỷ 70, 80, 90 của thế kỷ 20, thuốc BVTV góp phần bảo vệ và tăng năng suất khoảng 20 - 30% đối với các loại cây trồng chủ yếu như lương thực, rau, hoa quả.
Những năm gần đây theo ý kiến và nghiên cứu của nhiều tổ chức khoa học, chuyên gia về nông nghiệp, bảo vệ thực vật, sinh thái quá trình sử dụng thuốc BVTV ở thế giới trải qua 3 giai đoạn là: 1 - Cân bằng sử dụng (Balance use): yêu cầu cao, sử dụng có hiệu quả. 2 - Dư thừa sử dụng (Excessise use): bắt đầu sử dụng quá mức, lạm dụng thuốc BVTV, ảnh hưởng đến môi trường, giảm hiệu quả. 3 - Khủng hoảng sử dụng (Pesticide Crisis): quá lạm dụng thuốc BVTV, tạo nguy cơ tác hại đến cây trồng, môi trường, sức khỏe cộng đồng, giảm hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp. Giai đoạn dư thừa sử dụng từ những năm 80 - 90 và giai đoạn khủng hoảng từ những năm đầu thế kỷ 21. Với những nước đang phát triển, sử dụng thuốc BVTV chậm hơn (trong đó có Việt Nam) thì các giai đoạn trên lùi lại khoảng 10 - 15 năm.
Việc sử dụng thuốc BVTV ở thế giới hơn nửa thế kỷ luôn luôn tăng, đặc biệt ở những thập kỷ 70 - 80 - 90. Theo Gifap, giá trị tiêu thụ thuốc BVTV trên thế giới năm 1992 là 22,4 tỷ USD, năm 2000 là 29,2 tỷ USD và năm 2010 khoảng 30 tỷ USD, trong 10 năm gần đây ở 6 nước châu Á trồng lúa, nông dân sử dụng thuốc BVTV tăng 200 - 300% mà năng suất không tăng.
Hiện danh mục các hoạt chất BVTV trên thế giới đã là hàng ngàn loại, ở các nước thường từ 400 - 700 loại. (Trung Quốc 630, Thái Lan 600 loại). Tăng trưởng thuốc BVTV những năm gần đây từ 2 - 3%. Trung Quốc tiêu thụ hằng năm 1,5 - 1,7 triệu tấn thuốc BVTV (2010).
* Bên cạnh những đóng góp tích cực với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp (SXNN) trên thế giới cũng đem lại những hệ lụy xấu, đặc biệt trong vòng hơn 20 năm trở lại đây.
Sự đóng góp của thuốc BVTV vào quá trình tăng năng suất ngày càng giảm.
Theo Sarazy, Kenmor (2008 - 2011), ở các nước châu Á trồng nhiều lúa, 10 năm qua (2000 - 2010) sử dụng phân bón tăng 100%, sử dụng thuốc BVTV tăng 200 - 300% nhưng năng suất hầu như không tăng, số lần phun thuốc trừ sâu không tương quan hoặc thậm chí tương quan nghịch với năng suất. Lạm dụng thuốc hóa học bảo vệ thực vật còn tác động xấu đến môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng phá vỡ sự bền vững của phát triển nông nghiệp. Lạm dụng hóa chất BVTV làm tăng tính kháng thuốc, suy giảm hệ ký sinh - thiên địch để lại dư lượng độc trên nông sản, đất và nước, ảnh hưởng đến chất lượng môi trường, nhiễm độc người tiêu dùng nông sản. Trong giai đoạn 1996 - 2000, ở các nước đã phát triển, rất nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm, vẫn có tình trạng tồn tại dư lượng hóa chất BVTV trên nông sản như: Hoa Kỳ có 4,8% mẫu trên mức cho phép, cộng đồng châu Âu - EU là 1,4%, Úc là 0,9%. Hàn Quốc và Đài Loan là 0,8 - 1,3%. Do những hệ lụy và tác động xấu của việc lạm dụng thuốc BVTV cho nên ở nhiều nước trên thế giới đã và đang thực hiện việc đổi mới chiến lược sử dụng thuốc BVTV. Từ “Chiến lược sử dụng thuốc BVTV hiệu quả và an toàn” sang “Chiến lược giảm nguy cơ của thuốc BVTV”.
Trên thực tế, “Sử dụng thuốc BVTV hiệu quả và an toàn” mới mang tính kinh doanh và kỹ thuật vì chưa đề cập nhiều đến vấn đề quản lý, đặc biệt là mục tiêu giảm sử dụng thuốc BVTV, còn “giảm nguy cơ của thuốc BVTV” đã thể hiện tính đồng bộ, hệ thống, của nhiều biện pháp quản lý, kinh tế, kỹ thuật, nó bao gồm các nội dung, a) thắt chặt quản lý đăng ký, xuất nhập khẩu, sản xuất kinh doanh thuốc BVTV, b) giảm lượng thuốc sử dụng, c) Thay đổi cơ cấu và loại thuốc, d) Sử dụng an toàn và hiệu quả, đ) Giảm lệ thuộc vào thuốc hóa học BVTV thông qua việc áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp.
Chiến lược sử dụng thuốc BVTV mới này đã mang lại hiệu quả ở nhiều nước, đặc biệt là các nước Bắc Âu, đã thành công trong việc giảm thiểu sử dụng thuốc BVTV mà vẫn quản lý được dịch hại tốt. Trong vòng 20 năm (1980 - 2000) Thụy Điển giảm lượng thuốc BVTV sử dụng đến 60%, Đan Mạch và Hà Lan giảm 50%. Tốc độc gia tăng mức tiêu thụ thuốc BVTV trên thế giới trong 10 năm lại đây đã giảm dần, cơ cấu thuốc BVTV có nhiều thay đổi theo hướng gia tăng thuốc sinh học, thuốc thân thiện với môi trường, thuốc ít độc hại,
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Khái niệm về thuốc BVTV
-Thuốc BVTV là những hợp chất hoá học (vô cơ, hữu cơ), những chế phẩm sinh học (chất kháng sinh, vi khuẩn, nấm, siêu vi trùng, tuyến trùng, ), những chất có nguồn gốc thực vật, động vật, được sử dụng để bảo vệ cây trồng và nông sản, chống lại sự phá hại của những sinh vật gây hại (côn trùng, nhện, tuyến trùng, chuột, chim, thú rừng, nấm, vi khuẩn, rong rêu, cỏ dại, ).
- Theo qui định tại điều 1, chương 1, điều lệ quản lý thuốc BVTV (ban hành kèm theo Nghị định số 58/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ), ngoài tác dụng phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật, thuốc BVTV còn bao gồm cả những chế phẩm có tác dụng điều hoà sinh trưởng thực vật, các chất làm rụng lá, làm khô cây, giúp cho việc thu hoạch mùa màng bằng cơ giới được thuận tiện (thu hoạch bông vải, khoai tây bằng máy móc, ). 
 -Những chế phẩm có tác dụng xua đuổi hoặc thu hút các loài sinh vật gây hại tài nguyên thực vật đến để tiêu diệt.
- Ở nhiều nước trên thế giới thuốc BVTV có tên gọi là thuốc trừ dịch hại. Sở dĩ gọi là thuốc trừ dịch hại là vì những sinh vật gây hại cho cây trồng và nông sản (côn trùng, nhện, tuyến trùng, chuột, chim, nấm, vi khuẩn, cỏ dại, ) có một tên chung là những dịch hại, do vậy những chất dùng để diệt trừ chúng được gọi là thuốc trừ dịch hại.
2.2. Phân loại
Thuốc BVTV được chia thành nhiều nhóm dựa trên đối tượng sinh vật hại.
Thuốc trừ bệnh
Thuốc trừ nhện
Thuốc trừ sâu
Thuốc trừ tuyến trùng
Thuốc trừ cỏ
Thuốc điều hòa sinh trưởng
Thuốc trừ ốc
Dạng thuốc
Chữ viết tắt
Thí dụ
Ghi chú
Nhũ dầu
ND, EC
Tilt 250 ND, 
Basudin 40 EC,
DC-Trons Plus 98.8 EC
Thuốc ở thể lỏng, trong suốt.
Dễ bắt lửa cháy nổ
Dung dịch
DD, SL, L, AS
Bonanza 100 DD, 
Baythroid 5 SL, 
Glyphadex 360 AS
Hòa tan đều trong nước, không chứa chất hóa sữa
Bột hòa nước
BTN, BHN, WP, DF, WDG, SP
Viappla 10 BTN,
Vialphos 80 BHN,
Copper-zinc 85 WP,
Padan 95 SP
Dạng bột mịn, phân tán trong nước thành dung dịch huyền phù
Huyền phù
HP, FL, SC
Appencarb super 50 FL, Carban 50 SC
Lắc đều trước khi sử dụng
Hạt
H, G, GR
Basudin 10 H,
Regent 0.3 G
Chủ yếu rãi vào đất
Viên
P
Orthene 97 Pellet,
Deadline 4% Pellet
Chủ yếu rãi vào đất, làm bả mồi.
Thuốc phun bột
BR, D
Karphos 2 D
Dạng bột mịn, không tan trong nước, rắc trực tiếp
-Thuốc bảo vệ thực vật được phân thành hai loại chính là thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ.
Mức độ độc
LD50 với chuột (mg/kg)
Qua miệng
Qua da
Thuốc rắn
Thuốc nước
Thuốc rắn
Thuốc nước
Rất độc, nguy hiểm
< 5
< 20
< 10
< 40
 Độc cao
5 - 50
20 - 200
10 - 100
40 - 400
 Trung bình
50 - 500
200 - 2000
100 - 1000
400 - 4000
 Ít độc
> 500
> 2000
> 1000
> 4000
-Thuốc rất độc (nhóm I, LD50 < 50 mg/kg): vạch màu đỏ.
-Thuốc độc trung bình (nhóm II, LD50 >50-500 mg/kg): vạch màu vàng.
-Thuốc ít độc (nhóm III, LD50 >500 mg/kg): vạch màu xanh nước biển
2.3. Khẳng định vai trò quan trọng của thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp
Thuốc BVTV được bắt đầu được sử dụng ở miền Bắc Việt Nam vào những năm 1955 từ đó đến nay tỏ ra là phương tiện quyết định nhanh chóng dập tắt các dịch sâu bệnh trên diện rộng. Do vậy, cần phải khẳng định vai trò không thể thiếu được của thuốc BVTV trong điều kiện sản xuất nông nghiệp cảu nước ta những năm qua, hiện nay và cả trong thời gian sắp tới.
2.4. Việc sử dụng thuốc BVTV ở nước ta tăng nhanh.
Theo số liệu của cục BVTV trong giai đoạn 1981 - 1986 số lượng thuốc sử dụng là 6,5 - 9,0 ngàn tấn thương phẩm, tăng lên 20 - 30 ngàn tấn trong giai đoạn 1991 - 2000 và từ 36 - 75,8 ngàn tấn trong giai đoạn 2001 - 2010. Lượng hoạt chất tính theo đầu diện tích canh tác (kg/ha) cũng tăng từ 0,3kg (1981 - 1986) lên 1,24 - 2,54kg (2001 - 2010). Giá trị nhập khẩu thuốc BVTV cũng tăng nhanh, năm 2008 là 472 triệu USD, năm 2010 là 537 triệu USD. Số loại thuốc đăng ký sử dụng cũng tăng nhanh, trước năm 2000 số hoạt chất là 77, tên thương phẩm là 96, năm 2000 là 197, và 722, đến năm 2011 lên 1202 và 3108. Như vậy trong vòng 10 năm gần đây (2000 - 2011) số lượng thuốc BVTV sử dụng tăng 2,5 lần, số loại thuốc nhập khẩu tăng khoảng 3,5 lần. Trong năm 2010 lượng thuốc Việt Nam sử dụng bằng 40% mức sử dụng TB của 4 nước lớn dùng nhiều thuốc BVTV trên thế giới (Mỹ, Pháp, Nhật, Brazin) trong khi GDP của nước ta chỉ bằng 3,3%GDP trung bình của họ! Số lượng hoạt chất đăng ký sử dụng ở Việt Nam hiện nay xấp xỉ 1000 loại trong khi của các nước trong khu vực từ 400 - 600 loại, như Trung Quốc 630 loại, Thái Lan, Malasia 400 - 600 loại. Sử dụng thuốc BVTV bình quân đầu người ở Trung Quốc là 1,2 kg, ở Việt Nam là 0.95 kg (2010).
2.5. Mạng lưới SXKD thuốc BVTV tăng nhanh và khó kiểm soát
Theo số liệu của cục BVTV, đến năm 2010 cả nước có trên 200 công ty SXKD thuốc BVTV, 93 nhà máy, cơ sở sản xuất thuốc và 28.750 cửa hàng, đại lý buôn bán thuốc BVTV. Trong khi hệ thống thanh tra BVTV rất mỏng, yếu, cơ chế hoạt động rất khó khăn.
1 thanh tra viên năm 2010 phụ trách 290 đơn vị sản xuất buôn bán thuốc BVTV, 100.000ha trồng trọt sử dụng thuốc BVTV và 10 vạn hộ nông dân sử dụng thuốc BVTV. Như vậy rõ ràng mạng lưới này là quá tải, rất khó kiểm soát.
2.6. Những tác động tiêu cực của thuốc BVTV
-Nói về hậu quả việc lạm dụng thuốc BVTV, ông Hoàng Ngọc Quân, Chi cục trưởng Chi cục BVTV tỉnh Điện Biên cho biết: Việc lạm dụng thuốc BVTV nhất là thuốc trừ cỏ sẽ làm cho đất chua, giữ phân bón kém dẫn đến cây trồng khó hấp thu dinh dưỡng khiến năng suất không đạt tối đa; tiêu diệt sinh vật có ích, tạo đà cho sinh vật có hại phát triển nên cây trồng dễ nhiễm sâu bệnh, sinh trưởng kém. Nguyên nhân của tình trạng còn bộ phận nông dân lạm dụng thuốc BVTV quá mức cần thiết là do bà con chưa quan tâm đến mặt trái của các loại thuốc này dẫn đến sử dụng tùy tiện, cho rằng càng phun liều lượng nặng so với hướng dẫn thì hiệu quả phòng trừ càng cao... Để giảm tình trạng sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất, thời gian qua Chi cục BVTV tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho chủ hộ kinh doanh và nông dân; duy trì và phát triển hoạt động của các bảng tin, tủ thuốc BVTV tại cơ sở, giúp nông dân cập nhật thông tin kịp thời, xác định cụ thể thời gian, lựa chọn đúng loại thuốc BVTV để phòng trừ khi dịch hại xuất hiện... Từ đó nâng cao năng lực cho nông dân trong việc nhận biết, phát hiện sâu bệnh và biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp; sử dụng thuốc BVTV an toàn hiệu quả. Đồng thời hướng dẫn ủ phân hữu cơ vi sinh, giới thiệu danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên địa bàn; phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức các lớp huấn luyện quản lý dịch hại tổng hợp IPM cho nông dân; tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho nông dân trong việc sử dụng thuốc BVTV theo nguyên tắc “4 đúng”; đồng thời xây dựng nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn, như: canh tác cải tiến lúa SRI; “3 giảm, 3 tăng”; xây dựng các bể chứa thu gom bao gói thuốc BVTV trên các cánh đồng vùng lòng chảo Điện Biên hạn chế việc xả bao, vỏ thuốc BVTV bừa bãi... Đặc biệt công tác thanh, kiểm tra khâu sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV được tăng cường đối với các cơ sở, cửa hàng, đại lý kinh doanh thuốc BVTV: chứng chỉ hành nghề, điều kiện đảm bảo chất lượng cơ sở, địa điểm kinh doanh thuốc BVTV, kho chứa thuốc... Qua đó, góp phần nâng cao kiến thức, ý thức cho chủ kinh doanh mặt hàng này.
- Dư lượng thuốc BVTV trên nông sản là phổ biến và còn cao, đặc biệt trên rau, quả, chè
Kết quả kiểm tra, năm 2000 - 2002 của cục BVTV cho thấy ở vùng Hà Nội số mẫu có dư lượng quá mức cho phép khá cao, trên rau, nho, chè từ 10% - 26%, ở TPHCM từ 10 - 30%. Mười năm sau, trên rau con số đó vẫn còn 10,2% - Thuốc BVTV làm tăng tính kháng thuốc của sâu bệnh, tiêu diệt ký sinh thiên địch, có thể gây bộc phát các dịch hại cây trồng. Theo Phạm Bình Quyến - 2002, khi phu thuốc Padan trên lúa, nhóm thiên địch nhện lớn bắt mồi giảm mật độ 13 lần trong khi không phun tăng 25 lần. Điều tra tổng số loài thiên địch ở vùng chè Thái Nguyên nơi không sử dụng thuốc trừ sâu nhiều gấp 1,5 - 2 lần so với nơi có sử dụng thuốc. Sâu tơ hại rau kháng 24 loại thuốc - Sử dụng nhiều thuốc tác động xấu đến môi trường, gây ô nhiễm đất và nước không khí ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Theo thống kê cả nước hiện còn tồn đọng trên 706 tấn thuốc cần tiêu hủy và 19.600 tấn rác bao bì thuốc bảo vệ thực vật chưa được thu gom và xử lý, hàng năm phát sinh mới khoảng 9.000 tấn.
-Theo kết quả khảo sát của Viện Nước tưới tiêu và Môi trường (Bộ NN&PTNT), mỗi năm, cả nước sử dụng khoảng 200.000-250.000 tấn thuốc BVTV, sản sinh ra khoảng 7.500 tấn vỏ bao nhưng hầu hết chưa được thu gom xử lý mà xả trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm đồng ruộng, làm chết cua, cá. Đa số nông dân chưa thấy hết hiểm họa từ thuốc Con số 5000 người bị nhiễm độc thuốc BVTV chỉ trong năm 2009, trong đó 138 người tử vong, đó là chưa kể số người bị mắc bệnh ung thư, bệnh lao phổi, bệnh về đường hô hấp...
-Phần lớn kho chứa thuốc BVTV nằm ở những vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Mặc dù các kho thuốc này được di dời hoặc không sử dụng, số thuốc còn lại không được xử lý nhưng lượng hóa chất BVTV tồn lưu tại các điểm này đã và đang phát sinh vấn đề ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn nước và sức khỏe người dân.
*Ảnh hưởng tới sinh vật và môi trường
*Ảnh hưởng đến con người
2.7. Những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
- Sử dụng thuốc quá nhiều, quá mức cần thiết. Theo Phạm Văn Lầm - 2000, số lần phun thuốc bảo vệ thực vật cho chè ở Thái Nguyên từ 6,2 đến 29,7 lần/ năm, cho lúa ở đồng bằng sông Hồng từ 1 - 5 lần/ vụ, ở đồng bằng sông Cửu Long từ 2 - 6 lần/ vụ, trên 6 lần có 35,6% hộ. Số lần phun cho rau từ 7 - 10 lần/ vụ ở đồng bằng sông Hồng, ở Thành phố Hồ Chí Minh 10 - 30 lần. Một kết quả điều tra năm 2010 (Bùi Phương Loan - 2010) ở vùng rau đồng bằng sông Hồng cho thấy số lần phun thuốc bảo vệ thực vật từ 26 - 32 lần (11,1 - 25,6 kg ai/ha) trong 1 năm. Số lần phun như trên là quá nhiều, có thể giảm 45 - 50% (Ngô Tiến Dũng, Nguyễn Huân, Trương Quốc Tùng 2002, 2010)
- Sử dụng thuốc khi thiếu hiểu biết về kỹ thuật. Theo Đào Trọng Ánh - 2002, chỉ có 52,2% cán bộ kỹ thuật nông nghiệp - khuyến nông cơ sở hiểu đúng kỹ thuật sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ này ở người bán thuốc là 33% ở nông dân 49,6%.
- Sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, tùy tiện hỗn hợp khi sử dụng.
Kết quả điều tra năm 2002 (Đào Trọng Ánh) chỉ có 22,1 - 48% nông dân sử dụng đúng nồng độ liều lượng thuốc trên lúa, 0 - 26,7% trên rau và 23,5-34,1% trên chè, trong khi đó có nhiều nông dân tăng liều lượng lên gấp 3 - 5 lần. Ở các tỉnh phía Nam, có tới 38,6% dùng liều lượng cao hơn khuyến cáo, 29,7% tự ý hỗn hợp nhiều loại thuốc khi phun. Năm 2010, 19,59% nông dân cả nước vi phạm sử dụng thuốc, trong đó không đúng nồng độ là 73,2% (Cục BVTV)
- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không tuân thủ thời gian cách ly
Đây là một tồn tại nguy hiểm, tác động trực tiếp đến vệ sinh an toàn thực phẩm song đáng tiếc là rất phổ biến, đặc biệt là ở các vùng rau quả, chè có tới 35 - 60% nông d

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tac_dong_cua_thuoc_bao_ve_thuc_vat_doi_voi_con_nguoi_va.doc
  • docBia SKKN-CONG NGHE 10-XUAN THU.doc