SKKN Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử ở trường THPT

SKKN Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử ở trường THPT

 Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng phải đa dạng hoá các nguồn thông tin bằng nhiều phương tiện, phương pháp dạy học, trong đó tài liệu tham khảo là nguồn kiến thức không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy.

 Có thể nói, lịch sử liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá Chúng ta có thể tìm thấy lịch sử trong hầu hết các môn khoa học. Nhưng gần gũi nhất với lịch sử chính là ngành khoa học Xã hội - Nhân văn, trong đó nổi bật là bộ môn Văn học.

 Thực tiễn việc dạy và học lịch sử ở nhiều trường phổ thông hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận học sinh đang dần “xa lánh” môn lịch sử, không còn hứng thú với việc học tập môn lịch sử. Đây là thực trạng đáng buồn.

 Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân (gia đình – xã hội – nhà trường). Trong đó một nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng trên đó là: Giáo viên dạy sử còn để giờ dạy sử quá khô khan, nặng nề nên thiếu sự thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục hiện tượng này, theo tôi ngoài việc đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan. thì chúng ta nên sử dụng nhiều hơn nữa nguồn tài liệu văn học trong giờ học lịch sử để làm bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn hơn.

 

doc 19 trang thuychi01 12622
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 6
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT
 Người thực hiện: Lê Thị Ngân
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc lĩnh vực (Môn): Lịch Sử
THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU	
1.1. Lý do chọn đề tài	1
1.2. Mục đích nghiên cứu	1
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 	2
1.4. Phương pháp nghiên cứu 	2
2. NỘI DUNG	
2.1. Cơ sở lí luận của đề tài. 	3
2.2.Thực trạng về hứng thú học tập của học sinh trước khi áp dụng SKKN.	4 
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 	6
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm	12
2.4.1. Phương pháp kiểm nghiệm	12
2.4.2. Kết quả kiểm nghiệm	12
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ	
3.1. Kết luận 	15
3.2. Kiến nghị	16
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
 Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng phải đa dạng hoá các nguồn thông tin bằng nhiều phương tiện, phương pháp dạy học, trong đó tài liệu tham khảo là nguồn kiến thức không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy.
 Có thể nói, lịch sử liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá Chúng ta có thể tìm thấy lịch sử trong hầu hết các môn khoa học. Nhưng gần gũi nhất với lịch sử chính là ngành khoa học Xã hội - Nhân văn, trong đó nổi bật là bộ môn Văn học.
 Thực tiễn việc dạy và học lịch sử ở nhiều trường phổ thông hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận học sinh đang dần “xa lánh” môn lịch sử, không còn hứng thú với việc học tập môn lịch sử. Đây là thực trạng đáng buồn.
 Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân (gia đình – xã hội – nhà trường). Trong đó một nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng trên đó là: Giáo viên dạy sử còn để giờ dạy sử quá khô khan, nặng nề nên thiếu sự thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục hiện tượng này, theo tôi ngoài việc đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan.... thì chúng ta nên sử dụng nhiều hơn nữa nguồn tài liệu văn học trong giờ học lịch sử để làm bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn hơn. 
 Tài liệu văn học là một loại tài liệu lịch sử, là nguồn thông tin không thể thiếu trong dạy học lịch sử, nhất là chương trình lịch sử dân tộc. Do đặc trưng của bộ môn, kiến thức lịch sử là những kiến thức quá khứ, học sinh khó học, khó nhớ nên khi giáo viên sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ giúp học sinh hứng thú hơn, có sự hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó các em có thể dễ dàng lĩnh hội các thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang tính khái quát. Mặt khác, nó còn có tác dụng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh.
 Với những lí do trên, tôi chọn đề tài: “Sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học Lịch sử ở trường THPT” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2015-2016
 1.2. Mục đích nghiên cứu
 - Nghiên cứu để xác định các loại tài liệu văn học có thể sử dụng và đề xuất cách sử dụng góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử ở trường THPT
 - Nghiên cứu phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
 - Xác định những nội dung văn học có thể và cần sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam 
 - Rút ra một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử.
 1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
 - Đối tượng: học sinh các khối lớp 10,11,12.
 - Phạm vi nghiên cứu: học sinh trường THPTTriệu Sơn 6.
 - Để có cơ sở đánh giá hiệu quả của đề tài trong thực tế giảng dạy tôi chọn hai lớp của trường THPTTriệu Sơn 6 là 12A4 ( 2014- 2015) làm lớp đối chứng, và lớp 12 B2 (2015-2016) Làm lớp thực nghiệm. Hai lớp này 100% học sinh theo khối A, có sự tương đồng về tinh thần, thái độ và kết quả học tập môn lịch sử
 1.4. Phương pháp nghiên cứu:
 - Phương pháp sưu tầm sử liệu.
 - Phương pháp phân tích.
 - Phương pháp tổng hợp.
 - Phương pháp khái quát.
 - Phương pháp thực nhiệm.
 - Phương pháp so sánh 
2. NỘI DUNG
 2.1. Cơ sở lí luận của đề tài.
 Thế kỉ XXI Việt Nam đang đứng trước xu hế hội nhập, mở cửa nền kinh tế. Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với nền giáo dục nước nhà là phải đào tạo ra những con người phát triển toàn diện để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mỗi một môn học trong nhà trường đều phải góp phần vào việc đào tạo thế hệ trẻ, trong đó môn lịch sử là 1 môn quan trọng. Lịch sử góp phần trang bị cho con người những tri thức về văn hóa, nhân văn, lòng tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức tự chủ.Tìm hiểu lịch sử để chúng ta đúc rút được những kinh nghiệm mà cha ông đi trước để lại, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
 Lịch sử là cây cầu để nối quá khứ với tương lai. Ngay từ thời cổ đại, các nhà nghiên cứu đã khẳng định “Lịch sử là cô giáo của cuộc sống”, “Lịch sử là bó đuốc soi đường đi đến tương lai” Hay ngay khi đang còn học ở trường trung học Napôlêông Bônapác đã thấy được tầm quan trọng của việc học tập lịch sử . Cùng với Toán và Vật lí, Lịch sử là một môn học ông vô cùng yêu thích bởi theo ông muốn đánh 1 nước nào đó trước hết phải hiểu được dân tộc đó. Nhờ vậy trong cuộc đời trinh chiến của mình ông đánh đâu thắng đó. Câu chuyện này đã khẳng định tầm quan trọng của bộ môn lịch sử trong cuộc sống con người.
 Tuy nhiên hiện nay môn lịch sử đang ngày càng ít được quan tâm, chú ý. Do đó chất lượng dạy và học lịch sử đang ngày càng giảm sút. Lại một mùa tuyển sinh mới lại đến với bao bộn bề, lo lắng của các sĩ tử. Và năm nào môn lịch sử cũng trở thành “nỗi nhức nhối” của toàn xã hội. Làm sao để nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử là nỗi trăn trở của rất nhiều người Việt nam yêu nước, đặc biệt là của những thầy cô đang trực tiếp giảng dạy bộ môn. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lịch sử và thấy được thực trạng hiện nay của việc dạy và học lịch sử tôi vô cùng lo lắng. 
 Do quan niệm chưa đúng về bộ môn , ở các trường THPT từ cấp quản lí đến giáo viên đều coi lịch sử là môn phụ .Vì vậy chưa có sự đầu tư thích đáng .Mặt khác đa số học sinh coi đây là môn học thuộc lòng , không cần phải tư duy nên học sinh không hiểu lịch sử mà mới dừng lại ở biết lịch sử ,học trước quên sau , kiến thức lịch sử mơ hồ , chung chung ...
 Những hạn chế trong phương pháp dạy học cũng làm cho chất lượng bộ môn suy giảm , nhiều gíao viên vẫn dạy theo phương thức truyền thụ một chiều , thầy đọc trò chép , thầy chủ động truyền kiến thức , trò bị động tiếp thu kiến thức .Gìơ học lịch sử trở nên khô khan và nhàm chán 
 	Thực hiện chủ trương của Bộ giáo dục và đào tạo , Sở giáo dục đào tạo Thanh Hoá nhằm phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh trong quá trình học 
 	Thực hiện cuộc vận động 2 không với 4 nội dung cùng những nghị quyết của ngành , của Đảng , Nhà nước về đổi mới nhằm nâng cao chất lượng , hiệu quả dạy và học , đặc biệt là việc dạy và học môn lịch sử ở trường THPT.
 Hi vọng với đề tài này tôi có thể góp một phần nhỏ vào việc cải thiện tình hình dạy và học lịch sử hiện nay. Rất mong được sự góp ý của đồng chí, đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
2.2.Thực trạng về hứng thú học tập của học sinh trước khi áp dụng SKKN.
Tôi sử dụng phiếu điều tra về hứng thú học tập của học sinh lớp 12B2 khi học lịch sử (chú ý: phiếu điều tra không ghi tên người được điều tra để đảm bảo yếu tố khách quan) và nhận được kết quả như sau:
Mức độ hứng thụ
Năm học 2014 - 2015
Năm học 2015 - 2016
Lớp 12A4
Lớp 12B2
Số lượng
%
Số lượng
%
Rất thích
6
12.7
7
15.6
Bình thường
19
40.5
18
40
Không thích
22
46.8
20
44.4
Tổng
47
100
45
100
Qua kết quả điều tra trên ta thấy số lượng học sinh rất thích môn lịch sử ở cả 2 năm là rất ít, còn lại đa số học sinh được điều tra cẩm thấy bình thường hoặc không thích học lịch sử.
Kết quả thực trạng trên.
+ Từ việc không thích học lịch sử dẫn đến việc kiến thức về lịch sử dân tộc của các em ngày càng bị thu hẹp, các em có lối sống mơ hồ, thực dụng, thích hưởng thụ mà không có ý thức cống hiến.
+ Nhiều học sinh quay lưng lại với lịch sử dân tộc, không hiểu được nguồn gốc, quy luật phát triển của lịch sử loài người, dẫn đến một thế hệ trẻ Việt Nam đang sống lệch lạc, mất gốc, không biết trân trọng quá khứ.
+ Do không thích học lịch sử nên nhiều học sinh đang có sự nhầm lẫn không đáng có giữa lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới, sự kiện này với sự kiện kia, và nghiêm trọng hơn là hiện tượng xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử, sống nông nổi, nhất thời.
+ Kết quả các bài kiểm tra định kì thường xuyên, các kì thi do Bộ giáo dục và Đào tạo tổ chức chất lượng môn lịch sử rất thấp. Vẫn còn đó hàng ngàn thí sinh bị điểm 0 trong năm 2010 – 2011, kì thi tuyển sinh Đại học năm 2011 – 2012 Lịch sử là môn có điểm thấp nhất, số bài thi dưới điểm trung bình là 80 – 90%.
Tiếp tục tìm hiểu ở hai lớp 12A4 và 12B2 trong 2 năm học và thu được kết quả như sau:
Năm học 2014 – 2015
Lớp
Sĩ số
Nguyên nhân
Do học sinh chỉ tập trung môn khối A
Do kiến thức SGK khô khan, nặng nề
Do phương pháp dạy khô khan, buồn tẻ, nặng nề
Ý kiến khác
12A4
47
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12
25,5
10
2,.2
22
46,8
03
6,5
Năm học: 2015 – 2016 
Lớp
Sĩ số
Nguyên nhân
Do học sinh chỉ tập trung môn khối A
Do kiến thức SGK khô khan, nặng nề
Do phương pháp dạy khô khan, buồn tẻ, nặng nề
Ý kiến khác
12B2
45
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
13
28,9
11
24,4
19
42,2
02
4,5
Qua bảng thống kê trên ta thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh không hứng thú khi học lịch sử, nguyên nhân quan trọng nhất là do phương pháp giảng dạy khô khan, buồn tẻ, nặng về trình bày các sự kiện diễn ra, tiết học lịch sử trở thành buổi liệt kê những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ, vì vậy nhiều học sinh thấy “sợ” khi phải học lịch sử.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề .
2.3.1. Tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử 
 Theo tiến sĩ N.G Đairi trong cuốn “Chuẩn bị bài học lịch sử như thế nào” (NXB Giáo dục Hà Nội 1973 – trang 35). Thì bài giảng lịch sử trên lớp nên thực hiện theo sơ đồ sau:
1
2
2
3
Trong đó, con số 1 chỉ phần tài liệu tham khảo không có trong SGK, giáo viên đưa vào bài giảng nhằm nâng cao tính khoa học, sự trong sáng vừa sức, sự hấp dẫn lôi cuốn của giờ học lịch sử.
 Ngoài SGK, tài liệu tham khảo có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc làm phong phú kiến thức lịch sử đang học, hiểu sâu hơn quá khứ, tạo bài giảng hấp dẫn, sinh động có sức lôi cuốn học sinh.
 * Phân loại tài liệu tham khảo có các loại như sau:
 - Tài liệu lịch sử gốc: Gồm các văn kiện, tài liệu có liên quan trực tiếp đến sự kiện, ra đời vào thời điểm xảy ra sự kiện như các hiệp ước, điều ước, tuyên ngôn.... Ví dụ: Hiệp ước Hác Măng (1883); tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước VNDCCH (2/9/1945).
 - Tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước, phong trào công nhân và cộng sản Quốc tế....
 - Các tài liệu văn học: văn học dân gian, tiểu thuyết lịch sử...
 - Tài liệu lịch sử rút ra từ các công trình nghiên cứu sử học, dân tộc học....
 Như vậy, trong giờ dạy học việc sử dụng tài liệu tham khảo giúp học sinh có thêm cơ sở để nắm vững, hiểu bản chất sự kiện lịch sử; hình thành khái niệm, hiểu rõ quy luật, bài học của lịch sử. Nó giúp các em khắc phục việc “hiện đại hoá” lịch sủ hoặc “hư cấu” sai sự thực lịch sử.
 	2.3.2. Sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử:
 2.3.2.1. Vai trò, ý nghĩa của tài liệu văn học:
 Sử dụng tài liệu văn học trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông có vai trò to lớn.
 - Trước hết, các tác phẩm văn học với những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận kiến thức, khắc sâu kiến thức một cách dễ dàng hơn.
 Ví dụ: Khi dạy bài 16 ( LS lớp 10) Thời bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Để học sinh khắc sâu hơn hình ảnh Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, giáo viên có thể sử dụng 1 đoạn thơ trong tác phẩm Đại Nam quốc sử diễn ca để minh họa:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
 Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
 Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
 Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
 Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
 - Thứ hai, các tác phẩm văn học góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn nâng cao, hứng thú của học sinh.
	Ví dụ: Khi dạy bài 26 (lịch sử lớp 10) Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân. Khi dạy về cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 - 1855) để khắc sâu về nhân vật lịch sử này và làm phong phú thêm bài giảng. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh bài thơ Cao Bá Quát viết khi ông đi phục dịch phái đoàn nước ta sang nước ngoài.
“Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau
 Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu
 Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói
 Kéo áo rì rầm chuyện với nhau....
 .... Uốn éo đòi chồng nâng trở dậy
 Biết đâu đến khách biệt ly này.”
 2.3.2.2.. Các loại tài liệu văn học và cách sử dụng:
 Trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông tuỳ vào từng khoá trình, nội dung từng bài, từng phần mà giáo viên có thể đưa vào bài giảng các loại tài liệu văn học khác nhau như: Văn học dân gian; tác phẩm văn học ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử; Tiểu thuyết lịch sử; Hồi kí cách mạng.... Mỗi loại lại có ý nghĩa khoa học riêng, dó đó khi sử dụng phải phù hợp với yêu cầu bài giảng, với từng sự kiện, nhân vật lịch sử mà giáo viên lựa chọn đưa vào.
 a) Văn học dân gian:
 - VHDG ra đời từ rất sớm và rất phong phú với nhiều thể loại khác nhau như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, dân ca.... Đây là những tài liệu có giá trị, nó phản ánh nội dung nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc.
 Ví dụ như: Khi dạy bài 14 (LS lớp10) Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam. Khi giảng dạy về việc xây dựng thành Cổ Loa và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Triệu, giáo viên có thể đưa vào đó 1 số câu chuyện cổ tích về Nỏ Thần, về xây Thành Cổ Loa. Nhưng quan trọng hơn là qua những câu chuyện đó giáo viên phải giúp học sinh thấy được bước tiến lớn của quân dân Âu Lạc về kĩ thuật xây dựng cũng như kĩ thuật chế tác vũ khí.
 - Các loại hình văn học dân gian còn góp phần minh hoạ, làm rõ sự kiện, nhân vật lịch sử. Do đó, giáo viên nên đưa vào để học sinh hiểu rõ hơn về sự kiện, nhân vật lịch sử đó.
 Ví dụ như khi dạy bài 23 (LS lớp 10) Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỷ XVIII. Để khắc họa sự kiện nhân dân kinh thành vui mừng chào đón đoàn quân chiến thắng của nghĩa quân Tây Sơn giáo viên có thể đọc đoạn thơ
“Mây tạnh mù tan trời lại sáng
 Đầy thành già tre mặt như hoa
 Chung vai sát cánh cùng nhau nói
 Cố đô vẫn thuộc núi sông ta ”.
 - Không những vậy, tài liệu văn học dân gian còn làm cho bài học sinh động, tạo được không khí gần gũi với bối cảnh lịch sử đang học. Nó phản ánh những hiểu biết về các sự kiện lịch sử đang học, giúp học sinh hiểu được vấn đề cụ thể rõ ràng hơn. 
	Ví dụ như khi dạy bài 20 ( LS lớp 11) kháng chiến lan rộng ra cả nước (1873 - 1884). Để làm cho học sinh hiểu rõ tình cảnh rối ren của triều Nguyễn khi Tự Đức mất cũng như hiểu tại sao Pháp lại không nhân nhượng triều Nguyễn như năm 1874 nữa. Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe 2 câu ca dao sau:
“Một nhà sinh được Ba vua
Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài.”
	(Ba vua này là Đồng Khánh (sống) Kiến Phúc (chết) Hàm Nghi chạy ra Sơn phòng đều là con của Kiến Thái Vương (một nhà)). Tất nhiên giáo viên cần lưu ý giải thích từ “thua” thuộc quan điểm giai cấp nào?
	Hoặc khi dạy bài 12 (LS lớp 12) chương trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những chuyển biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Để mô phỏng cảnh nhân dân ta phải nộp sưu thuế. Giáo viên có thể sử dụng 4 câu ca dao sau:
“Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy.”
 - Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian còn giúp học sinh biết được, hiểu được về chí khí con người, về địa danh của 1 nhân vật lịch sử nào đó. Ví như khi nói về Lí Công Uẩn giáo viên có thể dùng 4 câu thơ sau:
“Màn có trời cao, chiếu đất liền
Đêm trăng Thanh thả giấc Thần tiên
Suốt đêm nào dám vung chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.”
	Hoặc khi giảng về cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành, để giúp học sinh dễ dàng nhớ về địa danh nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa, quê hương ông. Giáo viên có thể dùng 2 câu ca dao sau:
“Trên trời có ông sao Rua
Giữa làng Minh Giám có vua Ba Vành.”
 - Bên cạnh những tác dụng trên, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian sẽ giúp cho việc giáo dục tư tưởng, đạo đức nói chung và giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng có kết quả hơn. 
 b) Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử.
 - Đối với các tác phẩm văn học này, nó có ý nghĩa rất lớn đối với khi khôi phục lại hình ảnh quá khứ. Nó làm quá khứ của sự kiện lịch sử trở nên sống động hơn, chân thật hơn. Sự kiện trở nên có sức sống hơn và thu hút học sinh hơn khi theo dõi bài giảng.
	Ví dụ như: khi dạy bài 19 (LS lớp 11) Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1858-1873). Tuỳ vào diễn biến bài giảng giáo viên có thể lồng ghép bài thơ sau sao cho phù hợp tiến trình bài học. Cụ thể là:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút ra tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trăng dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này!”
(Theo thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – NXB Văn học, Hà Nội 1963)
	Hoặc để nói lên khí thế chống giặc của người dân Nam Bộ nói chung, 3 tỉnh miền Tây Nam Kì nói riêng, giáo viên có thể trích 1 đoạn trong văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu như:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn: Toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ....
.... Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn găn; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cỏ”.
.... Hoả mai đánh bằng rơm con cúc, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ....
 - Trong quá trình lịch sử từ đầu thế kỉ XX, khi nói về sự biến đổi của xã hội Việt Nam, cũng như thân phận của người nông dân trong xã hội thuộc Pháp. Giáo viên có thể sử dụng nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan; “Lão Hạc” của Nam Cao.... để khắc sâu hình ảnh thân phận người nông dân trong lòng xã hội cũ.
	Hoặc khi dạy bài 14( LS lớp 12): Phong trào cách mạng 1930 – 1935. Giảng về phong trào ở Nghệ Tĩnh giáo viên có thê đưa vào bài giảng đoạn trích sau trong “Bài ca cách mạng” cụ thể là:
“.... Than ôi, nước mất nhà xiêu
Thế không chịu nổi, liệu chiều tính mau.
Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh 1 phen dậy rồi....
..... Trên gió cả cờ đào phất thẳng
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra
Chiến trường một trận xông pha
Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng....”
(Thơ văn cách mạng 1930 – 1945 NXB Văn học.H.1930)
	Hoặc như khi dạy bài 20 (LS lớp 12) cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 - 1954) tại phần II mục 2 chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Giáo viên có thể sử dụng các tác phẩm văn học viết về Điện Biên Phủ trong thời kì này vào bài giảng. Ví dụ: Bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” (Tố Hữu). Giáo viên có thể trích dẫn 2 câu thơ sau để khắc sâu về hình ảnh chiến đấu dũng cảm của chiến sĩ Điện Biên đó là: 
“Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn.”
	Như vậy, có thể nói rằng, các tác phẩm văn học xuất hiện cùng thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử đã giúp học sinh thấy được “bức tranh” sống động của lịch sử, làm cho các em nhận thức được sự kiện đó 1 cách toàn diện hơn.
 c) Tiểu thuyết lịch sử:
 - Tiểu thuyết lịch sử có vai trò không nhỏ đối với việc dạy học lịch sử. Vì các tiểu thuyết này có chủ đề gần với những sự kiện trong khoá trình lịch sử, giúp học sinh khôi phục lại bối cảnh lịch sử,

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_tai_lieu_van_hoc_trong_day_hoc_lich_su_o_truong.doc