SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động củng cố bài học - Môn Toán 7

SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động củng cố bài học - Môn Toán 7

Sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục cần đào tạo đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực hành động, tính năng động, sáng tạo, tính tự lực và trách nhiệm cũng như năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.

 Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đổi mới giáo dục. Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII đặt ra yêu cầu đổi mới “căn bản, toàn diện” nền giáo dục nước nhà,một nhiệm vụ hết sức lớn lao cho toàn ngành Giáo dục nước ta, trong đó có việc tiếp tục đổi mới PPDH.

 Định hướng quan trọng của đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà trường PT.

 Công cuộc đổi mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay mà trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên, nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng, hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong học hành.

 

doc 19 trang thuychi01 22564
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động củng cố bài học - Môn Toán 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA 
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦNG CỐ BÀI HỌC- MÔN TOÁN 7
Người thực hiện: Phạm Thị Hà
 	Chức vụ: Giáo viên
 	Đơn vị công tác: Trường THCS Xuân Hòa, Thọ Xuân
 	SKKN: Môn Toán 
 THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
A Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
3.Đối tượng nghiên cứu
4.Phương pháp nghiên cứu
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng của vấn đề
1. Thực trạng
a. Thuận lợi
b. Khoa khăn
2. Kết quả khảo sát thực trạng trước khi áp dụng đề tài
III. Giải pháp thực hiện 
1.Giai đoạn 1 
a. Giải pháp 1
b.Giải pháp 2
2. Giai đoạn 2
a. Gải pháp 3
b. giải pháp 4
3.Giới thiệu một số sơ đồ tư duy trong hệ thống kiến thức đã thực hiện
IV. Kiểm nghiệm
1.Hiệu quả
2. Bài học kinh nghiệm
C.Kết luận – Đề xuất
1.Kết luận
2. Đề xuất
1
1
2
2
2
2
3
4
4
4
5
5
6
8;9;10;11;12;13
14
14
15
16
16
16
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
 Sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục cần đào tạo đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực hành động, tính năng động, sáng tạo, tính tự lực và trách nhiệm cũng như năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. 
 Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đổi mới giáo dục. Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII đặt ra yêu cầu đổi mới “căn bản, toàn diện” nền giáo dục nước nhà,một nhiệm vụ hết sức lớn lao cho toàn ngành Giáo dục nước ta, trong đó có việc tiếp tục đổi mới PPDH.
 Định hướng quan trọng của đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà trường PT.
 Công cuộc đổi mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay mà trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên, nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng, hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong học hành. 
Để thực hiện mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học.
Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.
Từ thực trạng trên, tôi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng sơ đồ tư duy trong củng cố nội dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như hiệu quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động củng cố bài học - Môn Toán lớp 7”. 
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
 Mục đích của đề tài là:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về phương pháp dạy học tích cực 
+ Nghiên cứu một số số PPDH tích cực trong đó có sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Toán nói chung và dạy học Toán 7 nói riêng. Từ đó đề xuất và đề xuất thực nghiệm sư phạm PPDH sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động củng cố bài học môn Toán 7
III. Đối tượng nghiên cứu:
+ Khách thể: HS lớp 7 trường THCS
+ Đối tượng: 
 - Chương trình và SGK Toán 7
 - Một số PPDH tích cực trong đó có sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Toán 7 
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu, đọc tài liệu,
Phương pháp điều tra thực tế
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
	Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu về Sơ đồ tư duy được phát minh bởi Tony Buzan, tôi nhận thấy rằng sơ đồ tư duy là công cụ tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm hứng và niềm say mê học tập cho học sinh. Đặc biệt, sơ đồ tư duy rất phù hợp cho việc đọc, ôn tập, ghi chú... 
Có thể nói, đây là công cụ vô giá không những giúp cho học sinh mà cả giáo viên trong việc thu thập, phân loại thông tin. 
Sơ đồ tư duy chính là một bức tranh tổng thể về chủ đề đang hướng tới để mỗi cá nhân có thể hiểu được bức tranh đó, nắm bắt được diễn biến của quá trình tư duy theo nhóm đang diễn ra đến đâu, đang ở nhánh nào của sơ đồ tư duy và tổng quan toàn bộ kết quả của nhóm ra sao. Điều này giúp tiết kiệm thời gian làm việc trong học tập do các thành viên không mất thời gian giải thích ý tưởng của mình thuộc ý lớn nào.
Trong quá trình học tập có rất nhiều ý kiến trong khi đó mỗi người luôn giữ chính kiến của mình, không hướng vào mục tiêu đã đề ra dẫn đến không rút ra được kết luận cuối cùng. Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ khắc phục được những hạn chế đó bởi sơ đồ tư duy tạo nên sự đồng thuận trong nhóm, các thành viên đều suy nghĩ tập trung vào một vấn đề chung cần giải quyết, tránh được hiện tượng lan man và đi lạc chủ đề. Không những vậy, sơ đồ tư duy đã tạo nên sự cân bằng giữa các cá nhân và cân bằng trong tập thể. Mọi thành viên đều đóng góp ý kiến và cùng nhau xây dựng nên sơ đồ tư duy của cả nhóm. Các thành viên tôn trọng ý kiến của nhau và các ý kiến đều được thể hiện trên sơ đồ tư duy.
Sơ đồ tư duy là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bài học. 
Sơ đồ tư duy cung cấp cho ta cái nhìn chi tiết và cụ thể. Khi mọi người tập trung vào chủ đề ở giữa thì bộ não của mỗi thành viên đều hướng tới trọng tâm tạo nên sự đồng thuận tập thể, cùng hướng tới một mục tiêu chung và định hướng được kết quả.
Các nhánh chính của sơ đồ tư duy đưa ra cấu trúc tổng thể giúp các thành viên định hướng tư duy một cách logic. Bên cạnh đó, các nhánh phụ kích thích tính sáng tạo đồng thời hiểu được tư duy cũng như sự tích cực của mỗi thành viên.
II. Thực trạng của vấn đề :
1.Thực trạng
a. Thuận lợi:
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị .
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên được sự ủng hộ từ các cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh
- Chương trình môn Toán học lớp 7 có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp củng cố bài bằng sơ đồ tư duy phát huy hiệu quả cao khi giáo viện tổ chức cho học sinh làm việc
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập: phòng CNTT, máy chiếu, bảng phụ
- Giáo viên được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng lược đồ tư duy trong giảng dạy.
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
- Phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong củng cố bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực.
b. Khó khăn:
- Đây là phương pháp dạy học đòi hỏi nhiều kỹ năng nên giáo viên và học sinh không tránh khỏi lúng túng trong một số kỹ năng như sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ,
- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kỹ năng khác ngoài kỹ năng sư phạm.
- Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng học sinh.
- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số học sinh, không gian lớp học, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, thời gian tiết học
- Năng lực học sinh không đồng đều nên đôi khi việc vẽ sơ đồ tư duy trong học tập là sự máy móc không hiệu quả.
2.Kết quả khảo sát thực trạng trước khi áp dụng đề tài:
 	Đầu năm học 2015 -2016 tôi được nhà trường phân công dạy môn Toán lớp 7. Qua điều tra bằng cách cho học sinh làm bài viết 15 phút, 45 phút và chấm vở bài tập của học sinh lớp 7 tôi nhận thấy trong bài làm của học sinh còn nhiều sai sót và kết quả thu được trong một số bài kiểm tra như sau. 
 Loại Lớp,SL
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7B
39
4
10,3
8
20,5
17
43,6
8
20,5
2
5,1
7A
40
3
7,5
8
20
16
40
10
25
3
7,5
Tổng
79
7
8,9
16
20,3
33
41,7
18
22,8
5
6,3
III.Giải pháp và tổ chức thực hiện:
 Trong dạy học Toán, việc ứng dụng CNTT hỗ trợ cho bài giảng là vô cùng quan trọng. Đặc biệt là sử sơ đồ tư duy cho các tiết ôn tập chương. Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc vhữ viết.
 Trong thực tế dạy học môn Toán ở trường THCS bản thân tôi thấy rằng việc ứng dụng CNTT vào bài giảng đối với CBGV còn rất hạn chế, nhiều GV còn ngại vì việc thiết kế một bài giảng có sự hỗ trợ của CNTT là mất nhiều thời gian; Đặc biệt là việc thiết kế sơ đồ tư duy cho các tiết ôn tập chương, cho phần củng cố bài học ở mỗi tiết dạy là một việc làm tương đối khó đối với nhiều GV
Để thực hiện việc củng cố nội dung bài học thông qua sơ dồ tư duy tôi thực hiện 2 giai đoạn sau:
1.Giai đoạn 1: Hướng dẫn học sinh cách ghi chép bài một cách hệ thống theo định hướng mới “chống đọc chép” tạo tiền đề cho việc vận dụng sơ đồ tư duy hệ thống hóa kiến thức và tăng cường khả năng tự học.
a.Giải pháp 1: Giới thiệu cho học sinh các kiểu ghi bài trong và ngoài lớp học.
- Qua tìm hiểu nhiều tài liệu, tôi biết được có những cách ghi chép như sau:
Ghi chép theo kiểu đề mục
Ghi chép theo kiểu trích dẫn
Ghi chép theo kiểu luận đề
Ghi chép theo kiểu tự do
- Trong quá trình dạy học, thực hiện triệt để tình thần chống đọc chép mà muốn học sinh vẫn có thể ghi chép bài với đầy đủ nội dung, tôi đã giới thiệu đến học sinh các kiểu ghi chép trên. Thực tế, các kiểu ghi chép này các em cũng đã thực hiện rồi nhưng ít được biết đến tên và tác dụng cũng như hiệu quả của từng kiểu ghi. Thông thường, tôi nhận thấy ở trường học sinh thường được hướng dẫn ghi chép bài học theo kiểu đề cương, trích dẫn và luận đề còn cách ghi chép theo kiểu tự do dành cho việc dự hội thảo hay chuyên đề 
- Điều đáng quan tâm là các kiểu ghi chép trên nếu được kết hợp với việc củng cố hệ thống kiến thức bài học theo kiểu “Sơ đồ tư duy” sẽ giúp học sinh nhớ lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê học tập hơn cho học sinh. 
b.Giải pháp 2: Hình thành thói quen ghi chép có hệ thống.
Thật vậy, biết cách ghi chép bài sẽ giúp học sinh vừa ghi nhận lại thật tốt những kiến thức giáo viên cung cấp, vừa giúp cho các kiến thức ấy "đi thẳng vào đầu" học sinh học một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn. Để cải thiện việc ghi chép của mình, tôi đã yêu cầu học sinh cần lưu ý:
Làm bài tập về nhà và xem trước bài học mới trước khi đến lớp.
Đi học đầy đủ, nếu bỏ một buổi học thì phải mượn vở của bạn cùng lớp để ghi lại.
Hãy để mỗi bài ghi chép ở một trang giấy riêng.
Ngoài các loại bút thông thường, học sinh cần trang bị thêm các loại bút dạ quang để làm nổi những thông tin quan trọng.
Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn.
Chú ý lắng nghe những lời giảng của giáo viên.
Không cần ghi lại mọi lời giảng của giáo viên mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động não chứ đừng chỉ ghi chép như một cái máy.
Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách hỏi lại giáo viên hay các bạn khác.
Giành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép. 
Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo khoa sẽ giúp bạn nhớ được các thông tin đó. 
Qua việc hướng dẫn cách ghi bài nói trên, tôi nhận thấy học sinh dần dần có những thay đổi đáng kể. Cụ thể, các em đã tự tin hơn trong việc ghi chép ở lớp và chuẩn bị bài soạn ở nhà thông qua sự hướng dẫn của tôi. Và, tôi nghĩ rằng việc hệ thống kiến thức sẽ rất dễ dàng với các em khi các em đã quen với việc viết bài có hệ thống như trên.
2.Giai đoạn 2: Thay đổi cách củng cố bài học thông qua sơ đồ tư duy.
 Để tổ chức hiệu quả, tôi phải chuẩn bị như sau:
 Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
* Đối với giáo viên:
- Chuẩn bị các sơ đồ ôn bài sao cho phù hợp nhất với từng bài.
- Vẽ sơ đồ tư duy hệ thống các bài trên giấy.
- Phân nhóm: 4 hoặc 8 học sinh/nhóm.
- Phần hướng dẫn các bước tiến hành vẽ một sơ đồ tư duy. 
* Đối với nhóm học sinh:
- Chuẩn bị giấy A4, bút chì màu, các mẫu giấy nhỏ, bút dạ quang.
- Cần nắm vững nội dung kiến thức của bài đã học.
a.Giải pháp 3: Hướng dẫn trình tự vẽ một Sơ đồ tư duy hệ thống kiến thức:
Để vẽ một sơ đồ tư duy gồm 7 bước như sau: 
Xác định rõ mục tiêu và tập trung vào nội dung bài học cụ thể.
Đặt tờ giấy nằm ngang và bắt đầu vẽ sơ đồ tư duy từ đầu trang hoặc giữa trang.
Vẽ một hình ảnh hay chữ trọng tâm để biểu thị mục tiêu của bài học hay một chương.
Dùng bút màu để thể hiện sự nhấn mạnh, kết cấu, bố cục, để gợi tính trực quan dễ nhớ. 
Vẽ các đường liên kết (nhánh chính) tỏa ra từ tâm của hình ảnh trung tâm.
Viết trên mỗi nhánh một từ then chốt sẽ giúp học sinh dễ dàng liên tưởng đến chủ đề. 
Tạo các nhánh cấp hai và cấp ba (nhánh phụ) cho những ý liên tưởng và ý phụ.
b.Giải pháp 4: Phân phối thời gian hợp lý:
Thời gian 1 tiết học 45 phút, nên vấn đề cần quan tâm để đạt hiệu quả là việc phân phối thời gian hợp lý. Do đó, tôi dùng thời gian của những bài học ngắn khoảng 7 – 10 phút để thực hiện.
- Khoảng 3 đến 5 phút: Các em tự do sáng tạo ‎‎ý tưởng riêng của mình và trao đổi với các bạn cùng nhóm.
- Khoảng 2 - 3 phút tiếp theo: Đại diện nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm mình. 
- Thời gian còn lại, tôi cùng các học sinh góp ý, đánh giá, trình chiếu sơ đồ mà tôi đã vẽ sẵn bằng phần mềm và cả bản vẽ “Sơ đồ tư duy” trên giấy để các em đối chiếu, so sánh, chỉnh sửa lại cho hợp lí.
- Qua “Sơ đồ tư duy” hệ thống kiến thức, tôi chốt lại những kiến thức cần nhớ, đặc biệt là các từ khóa để học sinh hiểu và nắm vững kiến thức nhờ hình ảnh trên sơ đồ. Có thể nói, đây là một phương pháp giúp người học lưu kiến thức trong trí nhớ được sâu và dài hơn so với các phương pháp khác.
3. Giới thiệu một vài “Sơ đồ tư duy” trong hệ thống kiến thức đã thực hiện:
Sơ đồ 1; Sơ đồ 2: Sơ đồ tư duy tổng kết chương II về các tam giác, tam giác đặc biệt và trường hợp bằng nhau của hai tam giác
 Sau khi dạy về các bài: Tổng ba góc của một tam giác; Các trường hợp bằng nhau của hai tam giác; Tam giác cân giáo viên hệ thống lại các kiến thức bằng sơ đồ tư duy. Giáo viên đưa ra sơ đồ gồm từ trung tâm là Tam giác và vẽ ra ba nhánh chính, yêu cầu học sinh theo nhóm điền thông tin vào các nhánh chính đó. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thiện sơ đồ với tất cả các nội dung đã học. Giáo viên giới hạn thời gian cho hoạt động, sau đó đại diện các nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm mình, cuối cùng giáo viên nhận xét sơ đồ của từng nhóm rồi chiếu sơ đồ mà giáo viên đã chuẩn bị cho học sinh theo dõi và bổ sung vào sơ đồ của mình. 
Sau khi học sinh quan sát hoàn thiện sơ đồ giáo viên cho học sinh nhắc lại toàn bộ 
nội dung kiến thức theo sơ đồ, từ các tính chất, định lí, các trường hợp bằng nhau của tam giác thường, tam giác vuông 
Sơ đồ 1: Sơ đồ tư duy tổng kết về các tam giác, tam giác đặc biệt và trường hợp bằng nhau của tam giác
Sơ đồ 2:Sơ đồ tư duy tổng kết chương II: Tam giác
Sơ đồ 3: Sau khi dạy bài: Đơn thức- SGK Toán 7, giáo viên đưa ra sơ đồ gồm từ trung tâm là Đơn thức và vẽ ra ba nhánh chính, yêu cầu học sinh theo nhóm điền thông tin vào các nhánh chính đó. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thiện sơ đồ với tất cả các nội dung đã học. Giáo viên giới hạn thời gian cho hoạt động, sau đó đại diện các nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm mình, cuối cùng giáo viên nhận xét sơ đồ của từng nhóm rồi cho HS tiếp tục bổ sung vào sơ đồ của mình. 
Sau khi học sinh quan sát hoàn thiện sơ đồ giáo viên cho học sinh nhắc lại toàn bộ 
nội dung kiến thức theo sơ đồ, từ định nghĩa Đơn thức đến các khái niệm: Bậc của đơn thức, đơn thức thu gọn ( chỉ rõ phần hệ số và phần biển)
Sơ đồ 3:
Sơ đồ 4: Sau khi dạy bài: Cộng,trừ đa thức- SGK Toán 7, giáo viên đưa ra sơ đồ gồm từ trung tâm là Cộng, trừ đa thức và vẽ ra bốn nhánh chính, yêu cầu học sinh theo nhóm điền thông tin vào các nhánh chính đó. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thiện sơ đồ với tất cả các nội dung đã học. Giáo viên giới hạn thời gian cho hoạt động, sau đó đại diện các nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm mình, cuối cùng giáo viên nhận xét sơ đồ của từng nhóm rồi cho HS tiếp tục bổ sung vào sơ đồ của mình. 
Sau khi học sinh quan sát hoàn thiện sơ đồ giáo viên cho học sinh nhắc lại toàn bộ nội dung kiến thức theo sơ đồ 
 Sơ đồ 4:Sơ đồ tư duy tổng kết bài cộng trừ đa thức
Sơ đồ 5: Sau khi dạy bài: Đa thức một biến- SGK Toán 7, giáo viên cho HS thiết kế sơ đồ với từ trung tâm là Đa thức một biến, từ đó vẽ ra các nhánh chính rồi lần lượt điền thông tin vào các nhánh chính đó. Tiếp tục vẽ ra các nhánh phụ và hoàn thiện sơ đồ với tất cả các nội dung đã học. Giáo viên giới hạn thời gian cho hoạt động, sau đó đại diện các nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm mình, cuối cùng giáo viên nhận xét sơ đồ của từng nhóm rồi cho HS tiếp tục bổ sung vào sơ đồ của mình. 
Sau khi học sinh quan sát hoàn thiện sơ đồ giáo viên cho học sinh nhắc lại toàn bộ nội dung kiến thức theo sơ đồ
 Sơ đồ 5: Sơ đồ tư duy tổng kết bài đa thức một biến
Sơ đồ 6: Sau khi dạy bài: Quan hệ giữa đường vuông góc và đường xiên, đường xiên và hình chiếu,giáo viên cho HS thiết kế sơ đồ với từ trung tâm là Quan hệ giữa đường vuông góc và đường xiên, đường xiên và hình chiếu, từ đó vẽ ra các nhánh chính rồi lần lượt điền thông tin vào các nhánh chính đó. Tiếp tục vẽ ra các nhánh phụ và hoàn thiện sơ đồ với tất cả các nội dung đã học. Giáo viên giới hạn thời gian cho hoạt động, sau đó đại diện các nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm mình, cuối cùng giáo viên nhận xét sơ đồ của từng nhóm rồi cho HS tiếp tục bổ sung vào sơ đồ của mình. 
Sau khi học sinh quan sát hoàn thiện sơ đồ giáo viên cho học sinh nhắc lại toàn bộ nội dung kiến thức theo sơ đồ
Sơ đồ 6: Sơ đồ tư duy tổng kết quan hệ giữa đường vuông góc
và đường xiên, đường xiên và hình chiếu
IV. Kiểm nghiệm:
1. Hiệu quả:
Mặc dù khi sắp xếp, các em chưa sắp xếp theo hệ thống kiến thức yêu cầu, cần có sự góp ý của bạn, nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi được học. Và, tôi khuyến khích, gợi mở, hướng dẫn các em đúng sơ đồ chuẩn. Bên cạnh đó, tôi cũng phát hiện ở các em có nhiều sáng tạo rất hay trong củng cố ôn bài.
Qua nhiều bài học nội dung củng cố bài như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em nhớ bài nhanh hơn, từng bước xây dựng được kỹ năng diễn giải. Vì vậy, việc củng cố bài học đối với học sinh đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành vài phút đề phân tích nhằm khắc sâu kiến thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như hướng dẫn các em kết nối các từ khóa đó. Bởi, mục đích cuối cùng của tôi là giúp các em có thể liên kết các bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành một sơ đồ tư duy hoàn hảo. 
Kết quả và thành tích học tập cao hơn:
	+ Kiến thức của học sinh sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học.
	+ Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu học hỏi giữa các thành viên trong lớp.
	+ Không khí lớp học vui tươi giúp học sinh 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_so_do_tu_duy_trong_hoat_dong_cung_co_bai_hoc_mo.doc