SKKN Sử dụng phương pháp đóng vai trong giảng dạy môn Công nghệ 10 nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh THPT
Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng những quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công nghệ 10 là những kiến thức cơ bản về nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh nghiệp. Do đó nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng cho học sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho học sinh.
Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm. Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho HS để các em tự lĩnh hội tri thức.
Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép, người giáo viên ít chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề mang tính chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tư nghiên cứu. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn trong tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách và cần thiết.
Xác định được nhiệm vụ trên, đội ngũ giáo viên ở các cấp học đã không ngừng đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, trong đó phương pháp đóng vai được nhiều giáo viên lựu chọn.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp đóng vai trong giảng dạy môn Công nghệ 10 nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh THPT ”
MỤC LỤC Trang PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài1 1.2. Mục đích nghiên cứu..1 1.3. Đối tượng nghiên cứu2 1.4. Phương pháp nghiên cứu2 PHẦN 2: NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận của đề tài...........3 2.2. Thực trạng của đề tài..............5 2.3. Giải pháp thực hiện đề tài..7 2.4. Kết quả thực nghiệm 2.4.1. Kết quả định lượng.................15 2.4.2. Kết quả định tính..........16 2.4.3. Kết luận chung về thực nghiệm........17 PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận18 3.2. Kiến nghị ...19 PHÂN 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng những quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công nghệ 10 là những kiến thức cơ bản về nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh nghiệp. Do đó nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng cho học sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho học sinh. Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm. Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho HS để các em tự lĩnh hội tri thức. Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép, người giáo viên ít chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề mang tính chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tư nghiên cứu. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn trong tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách và cần thiết. Xác định được nhiệm vụ trên, đội ngũ giáo viên ở các cấp học đã không ngừng đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, trong đó phương pháp đóng vai được nhiều giáo viên lựu chọn. Xuất phát từ những lý do đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp đóng vai trong giảng dạy môn Công nghệ 10 nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh THPT ” 1.2. Mục đích nghiên cứu Thiết kế, xây dựng và sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học phần nông, lâm, ngư nghiệp - Công nghệ 10, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học Công nghệ 10. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh khối 10 bậc trung học phổ thông 1.4. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa việc học của học sinh. - Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 (phần Nông, Lâm, Ngư nghiệp). - Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp, biện pháp thiết kế và sử dụng phương pháp đóng vai trong nội dung bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. b. Phương pháp chuyên gia Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài. c. Phương pháp thực tập sư phạm Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, tiến hành theo quy trình của đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu. d. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được. PHẦN 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nổ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng học, hoặc có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng học, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì HS chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho HS phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới PPDH phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. 2.1.1.2. Phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Thực tế giảng dạy môn Công nghệ 10 ở trường THPT cho thấy phần lớn do các giáo viên ở các bộ môn khác đảm nhận nên sự “đầu tư” giảng dạy chưa cao. Việc sử dụng các PPDH truyền thống càng làm cho HS có cách nhìn tiêu cực về môn học này, và nhiều HS ngày càng “ngán” môn Công nghệ. Để tránh hiện tượng nhàm chán cho HS việc mạnh dạn sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy học Công nghệ 10 là rất cần thiết, đặc biệt trong những năm gần đây với chương trình thay sách, đóng vai là phương pháp được áp dụng khá phổ biến. a. Ưu điểm của phương pháp đóng vai Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau: - HS được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. - Gây hứng thú và chú ý cho học sinh - Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh - Khích lệ sự thay đổi, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị xã hội. - Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. - Phát huy được những kinh nghiệm thực tế và tư duy sáng tạo của từng cá nhân cũng như sự phối hợp chặt chẽ của cá nhân với tập thể nhóm. - Lớp học sinh động, người học tiếp thu kiến thức thông qua những hoạt động tích cực trong "vai diễn" của họ. b. Hạn chế của phương pháp đóng vai - Mất nhiều thời gian. - Phải suy nghĩ "kịch bản", "diễn viên"... - Đối tượng học sinh có tỷ lệ khá giỏi phải nhiều - Nếu số lượng học sinh nhiều hiệu quả không cao. c. Phương pháp tổ chức phương pháp đóng vai Cách thức tiến hành phương pháp đóng vai thường theo các bước sau: - Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm một cách tương đối đơn giản, không quá phức tạp và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai. - Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công sắm vai - Thứ tự các nhóm đóng vai - Các HS khác theo dõi phóng vấn, nhận xét, đánh giá, bổ sung (nếu cần). Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? - Cuối cùng GV kết luận chốt lại về cách ứng xử cần thiết trong tình huống nên sự cố gắng của HS và rút kinh nghiệm. Cách thức tiến hành có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau: Các nhóm đóng vai Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản GV chia nhóm, giao nhiệm vụ Các nhóm khác theo dõi, nhận xét Giáo viên kết luận, nhận xét Sơ đồ 1. Các bước tiến hành phương pháp đóng vai d. Một số lưu ý khi thực hiện phương pháp đóng vai - Chọn vấn đề đóng vai có mục tiêu dạy học rõ ràng. - Chọn người đóng vai có kiến thức hay kinh nghiệm tương tự vai diễn hay chọn tình huống trong các nhóm đóng vai phải sát thực tế và đáp ứng mục tiêu dạy học. - Giáo viên giới thiệu vai diễn rõ mục đích, thống nhất tình huống. - Tình huống nên để mở, giáo viên không cho trước “kịch bản”, lời thoại. - Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai. - Người đóng vai phải hiểu rõ nhiệm vụ của mình ttrong bài tập đóng vai để không lạc đề. - Nên có các biện pháp khích lệ những học sinh nhút nhát tham gia. - Nên hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai. - Rút ra được kết luận sư phạm: ý đồ đưa ra tình huống để đóng vai, mục đích của kịch bản, kết quả sư phạm thu được v.v... 2.2. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trường THPT 2.1.1. Thực trạng dạy học của giáo viên Nhìn chung, giáo viên cải tiến đổi mới phương pháp như sử dụng: phương pháp vấn đáp tìm tòi, trực quan tìm tòi, thảo luận nhóm Tuy nhiên, việc sử dụng các phương pháp trên không thường xuyên, đa phần giáo án chủ yếu là nội dung bài học chứ chưa chú trọng đến phương pháp, rất ít câu hỏi tư duy. Chỉ sử dụng hệ thống sơ đồ trong SGK để minh học cho bài học, mà không có thêm các sơ đồ tự thiết kế từ nội dung SGK hay liên hệ thực tiễn. Chưa chú ý sử dụng các phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 2.1.2. Việc học của học sinh Qua thực tế giảng dạy cho thấy, chất lượng giờ dạy môn Công nghệ 10 chiếm tỷ lệ trung bình rất cao. Hoạt động các em chủ yếu là nghe giảng, ghi chép chứ chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài. Một số em còn làm việc riêng trong giờ học, có khi lớp 48-52 học sinh nhưng trong suốt giờ học chỉ tập trung 4-5 em phát biểu xây dựng bài. Các em hầu như không có hứng thú vào việc học tập bộ môn Công nghệ 10. Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập bộ môn chưa cao. Số học sinh giỏi ít, khá và trung bình nhiều, yếu vẫn còn. Qua thực tế giảng dạy nếu sử dụng các PPDH phát huy tính tích cực như: thảo luận nhóm, phiếu học tập, sử dụng băng hình cùng với những câu hỏi tìm tòi, kích thích tư duy, gây tranh luận thì không khí học tập sôi nổi hẳn, các em tích cực phát biểu xây dựng bài. Ngược lại, ở một số lớp giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại tái hiện, thông báo lớp học trở nên trầm, ít học sinh phát biểu xây dựng bài. 2.2. Những nguyên nhân của thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở trường THPT hiện nay Giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học. Bởi để dạy học theo các phương pháp mới phát huy được tính tích cực của HS đòi hỏi phải đầu tư thời gian, trí tuệ vào việc soạn giáo án. Đồng thời giáo viên phải có năng lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Đây là khó khăn đối với giáo viên hiện nay vì một số trường chưa có giáo viên chuyên ngành kỹ thuật nông nghiệp. Ở một số trường THPT chưa có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập của bộ môn như: chưa có phòng thực hành bộ môn, chưa có các đồ dùng dạy học cần thiết Bên cạnh đó một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng dạy và học Công nghệ 10 hiện nay do môn này không được học sinh coi là môn học chính, vì không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ buông lõng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh. 2.3. Giải pháp 2.3.1. Áp dụng phương pháp đóng vai kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học bài 9: “Biện pháp cải tạo và sử dụng đất xám bạc màu, đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá”. Đối với bài này tôi thực hiện như sau: - Bước 1: Giáo viên đưa một số hình ảnh về đất xám bạc màu và đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá cho học sinh quan sát. - Bước 2: Yêu cầu học sinh đóng vai mình chính là loại đất xấu cần được cải tạo. - Bước 3: GV chia lớp thành 4 nhóm (10- 11 người), tương ứng với 2 loại đất. + Nhóm 1, 3: Đất xám bạc màu + Nhóm 2, 4: Đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. GV yêu cầu trong thời gian 30 phút cả nhóm cùng nghiên cứu, xây dựng “kịch bản”, cử đại diện lên bảng “đóng vai” chính là loại đất đó. Giới thiệu “về mình” cho cả lớp trong thời gian 5 phút. - Bước 4: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai. - Bước 5: Thứ tự các nhóm lên đóng vai. - Bước 6: Các học sinh khác theo dõi, nhận xét, bổ sung. - Bước 7: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá. Sau đây tôi xin giới thiệu “kịch bản” của học sinh Mai Thi Thu - lớp 10C1 lên đóng vai (Từ in đậm là nội dung được HS ghi trên giấy A0): Này! Này! Anh chị em ơi! Tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ? (phía dưới: không xưng danh thì ai biết là ai!). Vậy thì để tôi biểu diễn 1 đoạn văn nghệ xem các bác có đoán ra không nhé. “Đất vắng cây đất ngừng ngừng hơi thở. Cây thiếu đất cây sống sống với ai? Chuyện chăm năm ân tình cây và đất. Cây bám rễ sâu đất ôm chặt tận đáy lòng”....Nào các bác đoán đi! (Phía dưới lớp: Tưởng tên gì hóa ra là đất). Ấy! Ấy! Đất cũng có nhiều loại đất còn em đây có tên riêng là “Đất xám bạc màu” đấy các bác ạ! Họ đất xám bạc màu nhà em không phải tự nhiên mà có đâu. Chúng em chỉ được hình thành ở những vùng có độ dốc thoải, nơi mà người nông dân vẫn giữ lối canh tác lạc hậu như thâm canh, du canh,...và gần đây em còn có cơ hội xuất hiện nhiều thêm nữa khi con người tăng cường chặt phá rừng bừa bãi. Đấy, các bác nhìn thì thấy ngay. Đố các bác biết chúng em tập trung đông đảo ở đâu nào? (Phía dưới lớp: Ở đâu?) Chúng em phân bố chủ yếu ở vùng Trung du Bắc Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Có mặt ở những vùng đấy thì không cần nói các bác cũng biết chúng em trông như thế nào rồi: tầng mặt mỏng, chủ yếu là cát, lượng sét và keo ít cho nên thường bị khô hạn; người lúc nào cũng chua hoặc rất chua, nghèo dinh dưỡng, nghèo mùn. Chính vì thế ngay cả các bác vi sinh vật cũng chẳng muốn sống cùng nên số lượng thường ít, hoạt động yếu. (Phía dưới lớp: Xấu thế thì ai muốn sống cùng cũng chịu thôi.) Đúng thế đấy các bác ạ. Nhưng đó là chuyện trước đây thôi, còn bây giờ chúng em đã trở nên hữu dụng rồi. Tất cả là nhờ những người nông dân Việt Nam đã không ngại khó khăn mà áp dụng các biện pháp để cải tạo, loại bỏ những tính chất xấu giúp Đất xám bạc màu chúng em trở thành loại đất có thể sử dụng rộng rãi với nhiều loại cây trồng khác nhau. Để biết các biện pháp đã được sử dụng cải tạo chúng em là gì, mời mọi người hãy quan sát hình ảnh và cùng suy đoán nhé! Các bác xem, sau khi được cải tạo bằng các biện pháp hợp lí thì chúng em có thể nuôi dưỡng được rất nhiều loại cây trồng khác nhau. Các giống cây trồng sẽ sinh trưởng, phát triển tốt, mang lại mùa màng bội thu cho người nông dân. Vì vậy mọi người đừng vội bỏ hoang đất Xám bạc màu, đó sẽ là một sự lãng phí tài nguyên thiên nhiên rất đáng tiếc! Ông cha ta đã dạy “Tấc đất tấc vàng”. 2.3.2. Áp dụng phương pháp đóng vai vào dạy học bài 12. “Đặc điểm, tính chất , kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường” – Công nghệ 10. Đối với bài này tôi sử dụng đóng vai theo các cách sau đây: *Cách 1: Học sinh đóng vai mình chính là các loại phân bón Cách này được tổ chức theo trình tự như sau: Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm (15-16 người), tương ứng với 3 loại phân bón + Nhóm 1: Phân hóa học + Nhóm 2: Phân hữu cơ + Nhóm 3: Phân vi sinh vật Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên phát đồ dùng gồm 1 giấy A0, 1 bút xạ và yêu cầu trong thời gian 10 phút cả nhóm cùng nghiên cứu, xây dựng “kịch bản”, sau đó cử đại diện lên bảng “đóng vai” chính là loại phân bón đó. Giới thiệu “về mình” cho cả lớp (xem như là bà con nông dân) trong thời gian 5 phút. Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai. Bước 3: Thứ tự các nhóm lên đóng vai Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần). Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá Sau đây tôi xin giới thiệu “kịch bản” của học sinh Nguyễn Thị Ngọc Anh- lớp 10C1 lên đóng vai: “Xin chào tất cả bà con, tôi xin tự giới thiệu tôi là phân hóa học, là loại phân bón được sản xuất theo quy trình công nghiệp, có sử dụng nguyên liệu tự nhiên hoặc tổng hợp. Nếu xét theo số nguyên tố tham gia tôi thường được chia làm 2 loại đó là: phân đa nguyên tố và phân đơn nguyên tố, phân đơn nguyên tố ví dụ như: đạm, lân, kali phân đa nguyên tố ví dụ như NPK... Bà con nông dân nên sử dụng tôi bởi tôi có những đặc điểm sau: thứ nhất, chứa ít nguyên tố nhưng tỷ lệ chất dinh dưỡng cao nên chỉ cần bón lượng ít. Thứ hai, tôi phần lớn dễ tan (trừ lân) nên cây dễ hấp thụ và cho hiệu quả nhanh. Tuy nhiên, tôi lại có nhược điểm là bón nhiều và liên tục nhiều năm sẽ làm đất chua, do đó để sử dụng tôi có hiệu quả bà con cần lưu ý một số vấn đề sau: Đạm, kali bón thúc là chính. Lân (khó tan) chủ yếu bón lót. Đất dễ bị chua hóa nên cần kết hợp bón vôi cải tạo. Bà con lựa chọn tôi chính là đầu tư có hiệu quả, tôi hy vọng sẽ là người bạn đưa lại năng suất cao cho các bác. Chúc bà con có một vụ mùa bội thu và thắng lợi”. Ghi chú: Từ in nghiêng là nội dung chính được HS trình bày trên giấy *Cách 2: Học sinh đóng vai là bà con nông dân 3 xã sử dụng 3 loại phân bón. Cách này được tổ chức theo trình tự như sau: Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, tương ứng với bà con nông dân sử dụng 3 loại phân bón của 3 xã là: A, B, C + Nhóm 1: xã A - Phân hóa học + Nhóm 2: xã B - Phân hữu cơ + Nhóm 3: xã C - Phân vi sinh vật Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên yêu cầu trong thời gian 10 phút cả nhóm cùng nghiên cứu, soạn thảo xây dựng “kịch bản”. Chọn 1 người làm dẫn chương trình (MC) dưới hình thức tổ chức cuộc thi “Nhà nông đua tài” với chủ đề về cách sử dụng phân bón. Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai. Bước 3: Đóng vai “kịch bản”. MC lần lượt mời đại diện 3 đội chơi trình bày về cách sử dụng phân bón ở địa phương mình. Bước 4: Cả 3 đội chơi cùng thảo luận. Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần). Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá, tổng kết cuộc thi trao giải (động viên). *Cách 3: Học sinh đóng vai là bà con nông dân 3 xã sử dụng 3 loại phân bón. Cách này phân công nhóm giống cách 2 nhưng được tổ chức tương tự cách 1. *Cách 4: Học sinh đóng vai người dân đi mua 3 loại phân bón ở 3 cửa hàng khác nhau. Cách này được tổ chức theo trình tự như sau: Bước 1: Giáo viên cử một học sinh đóng vai người dân đi mua phân bón và chia lớp thành 3 nhóm, tương ứng với 3 cơ sở sản xuất và bán phân bón. + Nhóm 1: Cửa hàng bán phân hóa học + Nhóm 2: Cơ sở sản xuất và bán phân hữu cơ + Nhóm 3: Cửa hàng bán phân vi sinh vật Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên yêu cầu trong thời gian 10 phút cả nhóm cùng nghiên cứu, soạn thảo xây dựng “kịch bản”. Sau đó mời đại diện 3 nhóm lên 3 vị trí đã sắp xếp trước, lần lượt người đóng vai nông dân sẽ ghé thăm hỏi mua và nghe 3 “cơ sở” giới thiệu về phân bón của mình (mỗi cơ sở trình bày 3 phút). Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai. Bước 3: Đóng vai “kịch bản”. Người nông dân lần lượt ghé vào 3 “cơ sở” phân bón. Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần). Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá Lưu ý: “Cơ sở” sản xuất và bán phân hữu cơ có thể là hộ gia đình hoặc trang trại chăn nuôi. Sau đây tôi xin giới thiệu một “kịch bản” được soạn thảo làm ví dụ: Bác An là một nông dân ở xã A, gia đình bác làm 3 sào ruộng nhưng bác chưa biết lựa chọn sử dụng phân bón nào cho phù hợp nên bác đã đi xin “tư vấn” của 3 cơ sở sản xuất và bán phân bón. - Bác vào cửa hàng bán phân hóa học, được người bán hàng giới thiệu: Bác nên dùng phân hóa học vì đây là loại phân bón (thông tin về phân hóa học) (3 phút). - Bác vào cơ sở sản xuất phân hữu cơ, được người chủ cơ sở giới thiệu: Bác nên dùng phân hữu cơ vì đây là loại phân bón (thông tin về phân hưu cơ) (3 phút). - Bác vào cửa hàng bán phân vi sinh vật, được người bán hàng giới thiệu: Bác nên dùng phân vi sinh vật vì đây là loại phân bón (thông tin về phân vi sinh vật) (3 phút). Sau khi bác An nghe lời tư vấn của 3 cơ sở, bác rất băn khoăn chưa biết lựa chọn loại phân nào cho phù hợp. Giáo viên sử dụng tình huống mở này làm củng cố bài học. Em hãy cho bác An một lời khuyên? HS tham gia trao đổi thảo luận đưa ra lời khuyên dựa vào nội dụng bài học và sự hiểu biết của học sinh. Giáo viên tổng kết, bổ sung, đánh giá. 2.4. Kết quả thực nghiệm Qua quá trình thực nghiệm, chúng tôi đã sử dụng phương pháp đóng vai theo cách 1 vào dạy học bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_phuong_phap_dong_vai_trong_giang_day_mon_cong_n.doc