SKKN Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học bài nitơ – Hóa học lớp 11 để tạo hứng thú học tập cho học sinh

SKKN Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học bài nitơ – Hóa học lớp 11 để tạo hứng thú học tập cho học sinh

Nói đến các môn khoa học tự nhiên nói chung và môn hóa học nói riêng học sinh thường hay liên tưởng đến những môn học cứng nhắc, khô khan. Chính vì vậy mà khi học các môn này không ít học sinh thường có cảm giác “sợ” và dễ chán nản.

Trong dạy học nói chung, trong dạy học môn hóa học nói riêng vấn đề đặt ra là phải đổi mới chiến lược đào tạo con người. Đặc biệt cần đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng phát triển thế hệ mới năng động sáng tạo, cho học sinh tìm tòi, khám phá từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ động. Ở nước ta việc đổi mới PPDH đã diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây. Tức là chúng ta đang dần chuyển từ dạy học theo hướng lấy giáo viên (GV) làm trung tâm sang việc dạy học theo hướng lấy học sinh (HS) làm trung tâm. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức điều khiển cho học sinh lĩnh hội tri thức.

Tuy nhiên, trong giảng dạy hóa học ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn tình trạng người giáo viên ít chú trọng đến việc phát huy tính tích cực của học sinh, ít khi đặt ra vấn đề mang tính chất tìm tòi cho học sinh phát triển năng lực tư duy, tự học và tự nghiên cứu.

Với những lý do trên để việc dạy học môn hóa học lớp 11 có hiệu quả, tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm “sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học bài Nitơ - Hóa học lớp 11 để tạo hứng thú học tập cho học sinh”.

 

docx 16 trang thuychi01 19845
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học bài nitơ – Hóa học lớp 11 để tạo hứng thú học tập cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT ĐÔNG SƠN 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC BÀI NITƠ – HÓA HỌC LỚP 11 ĐỂ TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
 Người thực hiện: Trịnh Thị Tuyết
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Hóa học
THANH HÓA, NĂM 2019
 MỤC LỤC Trang
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Nói đến các môn khoa học tự nhiên nói chung và môn hóa học nói riêng học sinh thường hay liên tưởng đến những môn học cứng nhắc, khô khan. Chính vì vậy mà khi học các môn này không ít học sinh thường có cảm giác “sợ” và dễ chán nản. 
Trong dạy học nói chung, trong dạy học môn hóa học nói riêng vấn đề đặt ra là phải đổi mới chiến lược đào tạo con người. Đặc biệt cần đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng phát triển thế hệ mới năng động sáng tạo, cho học sinh tìm tòi, khám phá từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ động. Ở nước ta việc đổi mới PPDH đã diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây. Tức là chúng ta đang dần chuyển từ dạy học theo hướng lấy giáo viên (GV) làm trung tâm sang việc dạy học theo hướng lấy học sinh (HS) làm trung tâm. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức điều khiển cho học sinh lĩnh hội tri thức.
Tuy nhiên, trong giảng dạy hóa học ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn tình trạng người giáo viên ít chú trọng đến việc phát huy tính tích cực của học sinh, ít khi đặt ra vấn đề mang tính chất tìm tòi cho học sinh phát triển năng lực tư duy, tự học và tự nghiên cứu.
Với những lý do trên để việc dạy học môn hóa học lớp 11 có hiệu quả, tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm “sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học bài Nitơ - Hóa học lớp 11 để tạo hứng thú học tập cho học sinh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu 
- Giúp cho học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức của môn học một cách mềm dẻo và linh hoạt. 
 - Tạo ra được lòng say mê và hứng thú đối với môn học từ đó nâng cao chất lượng dạy và học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
Bài nitơ – Hóa học 11 và áp dụng cho học sinh lớp 11 trường THPT Đông Sơn 1 năm học 2018 – 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
-Thống kê toán học, phân tích kết quả.
1.5. Một số lưu ý khi thực hiện phương pháp đóng vai.
	- Chọn vấn đề đóng vai có mục tiêu dạy học rõ ràng.
	- Chọn người đóng vai có kiến thức hay kinh nghiệm tương tự vai diễn hay chọn tình huống trong các nhóm đóng vai phải sát thực tế và đáp ứng mục tiêu dạy học.
- Giáo viên giới thiệu vai diễn rõ mục đích, thống nhất tình huống.
- Tình huống nên để mở, giáo viên không cho trước “kịch bản”, lời thoại.
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
- Người đóng vai phải hiểu rõ nhiệm vụ của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề.
- Nên có biện pháp khích lệ những học sinh nhút nhát tham gia.
- Nên hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của phương pháp đóng vai.
- Rút ra được kết luận sư phạm: ý đồ đưa ra tình huống để đóng vai, mục đích của kịch bản, kết quả sư phạm thu được.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
a. Phương pháp dạy học (PPDH) tích cực 
PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.Tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nổ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học thì người thầy phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì HS chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho HS phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới PPDH phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công.
b. Phương pháp đóng vai
 Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, làm thử một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.
 + Ưu điểm của phương pháp đóng vai.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh, tạo điều kiện để học sinh có thể chủ động sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến thức qua lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
- Giúp học sinh phát huy được khả năng của từng cá nhân cũng như sự phối hợp chặt chẽ của từng cá nhân với tập thể nhóm.
+ Hạn chế của phương pháp đóng vai.
- Mất nhiều thời gian, phải suy nghĩ “kịch bản”, “diễn viên”...
- Nếu số lượng học sinh nhiều hiệu quả không cao.
- Học sinh phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng và thuộc kịch bản.
+ Tiến hành phương pháp đóng vai.
Cách tiến hành các phương pháp đóng vai thường theo các bước sau:
- GV chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm một cách tương đối đơn giản không quá phức tạp và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai.
- Các nhóm thảo luận xây dựng kịch bản và phân công sắm vai.
 - Thứ tự các nhóm đóng vai.
- Các học sinh khác theo dõi, nhận xét, phỏng vấn, đánh giá và bổ sung (nếu cần). Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào?
- Cuối cùng GV kết luận chốt lại về cách ứng xử cần thiết trong tình huống và rút kinh nghiệm.
 Cách tiến hành các phương pháp đóng vai có thể tóm tắt theo sơ đồ sau:
GV chia nhóm và giao nhiệm vụ
↓
Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản
↓
Các nhóm đóng vai
↓
Các nhóm khác theo dõi, nhận xét...
 ↓	
Giáo viên kết luận, nhận xét
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng dạy học của giáo viên
Nhìn chung giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy học như: sử dụng phương pháp vấn đáp tìm tòi, trực quan tìm tòi, thảo luận nhóm...Tuy nhiên việc sử dụng các phương pháp trên không thường xuyên, đa phần giáo án chủ yếu là nội dung bài học chứ chưa chú trọng đến phương pháp, rất ít câu hỏi tư duy. Chỉ sử dụng hệ thống sơ đồ trong SGK để minh họa cho bài học mà không có thêm các sơ đồ tự thiết kế từ nội dung SGK liên hệ thực tiễn. Chưa chú ý sử dụng phương pháp để tạo ra hứng thú học tập môn học cho học sinh.
2.2.2. Việc học của học sinh
Qua thực tế dạy học cho thấy, chất lượng dạy học môn hóa học 11 chiếm tỉ lệ trung bình cao, ít học sinh khá, giỏi. Nhiều học sinh tiếp thu kiến thức thụ động chủ yếu là nghe giảng và ghi chép chứ chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài. Một số em còn làm việc riêng trong giờ học, thậm chí một số em còn có cảm giác “buồn ngủ” và “sợ” môn hóa học. Có khi lớp 39 – 40 em nhưng chỉ có 3 – 4 em tập trung phát biểu xây dựng bài. Các em hầu như không hứng thú với môn học.
Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập môn hóa học ở nhiều lớp chưa cao. Số học sinh giỏi ít (thậm chí không có), khá và trung bình nhiều, yếu kém vẫn còn. Qua thực tế giảng dạy nếu sử dụng phương pháp đóng vai cùng với những câu hỏi tìm tòi, kích thích tư duy, gây tranh luận thì không khí học tập sôi nổi hẳn lên, các em có hứng thú học tập nên rất tích cực phát biểu xây dựng bài. Ngược lại, ở lớp giáo viên không sử dụng phương pháp đóng vai thì lớp học trầm hơn, số lượng học sinh hứng thú với môn học ít nên có ít học sinh phát biểu xây dựng bài. 
2.3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
Để khắc phục tình trạng trên và để việc dạy môn hóa học lớp 11 có hiệu quả trong khuôn khổ của sáng kiến tôi sẽ trình bày cách “sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học bài Nitơ - Hóa học lớp 11 để tạo hứng thú học tập cho học sinh”.
 2.3.1. “Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học bài Nitơ - Hóa học lớp 11 để tạo hứng thú học tập cho học sinh”.
 Đối với bài này tôi sử dụng đóng vai theo cách sau đây: Học sinh đóng vai diễn viên chèo giới thiệu về tính chất của nitơ qua bài thơ Cô gái nitơ, vai quần chúng trả lời một số câu hỏi của diễn viên.
Cách thức này được tổ chức theo trình tự như sau:
Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm (12 người/1 nhóm)
+ Nhóm 1 đóng phân cảnh giới thiệu về tính chất vật lí và vị trí của nitơ trong bảng tuần hoàn. 
+ Nhóm 2 đóng phân cảnh giới thiệu về sự tạo thành khí NO, NO2 và một số tính chất hóa học của NO và NO2.
+ Nhóm 3 đóng phân cảnh củng cố tính chất của nitơ bằng cách đọc lại toàn bộ bài thơ cô gái nitơ có ghép nhạc của vở chèo Thị Nở.
Giáo viên sẽ phân công nhiệm vụ cho các nhóm sau khi học xong tiết 10 để các nhóm có thời gian xây dựng kịch bản, phân công vai diễn, tập lời thoại và ghép nhạc.
Bước 2: Các nhóm thảo luận xây dựng kịch bản và đóng vai.
Bước 3: Thứ tự các nhóm lên đóng vai.
Bước 4: Các nhóm khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần).
Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá.
Lưu ý: Phải cho Học sinh chuẩn bị trước vì nếu thời gian 45 phút ở lớp không thể kịp để các nhóm có thể xây dựng kịch bản, phân công vai diễn, học thuộc lời thoại và trình bày.
Sau đây tôi xin giới thiệu kịch bản của 3 nhóm học sinh lớp 11a3 trường THPT Đông Sơn 1 lên đóng vai.
+ Nhóm 1: Tình huống như sau: Một diễn viên chính lên giới thiệu vị trí, tính chất vật lí của nguyên tố nitơ bằng cách sử dụng 16 câu đầu của bài thơ Cô gái nitơ dưới dạng hát chèo (nếu không hát được thì ngâm thơ), các học sinh còn lại đóng vai quần chúng.
Diễn viên chính: Này các bạn ơi!
Diễn viên quần chúng: Ơi!
Diễn viên chính: Hỏi khí không phải! Tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ?
Diễn viên quần chúng: không xưng danh ai biết đó là ai!
Diễn viên chính: Vậy tôi xin phép giới thiệu về mình.
 Sau đó diễn viên chính sử dụng 16 câu đầu bài thơ cô gái nitơ dưới dạng hát chèo (nếu không hát được thì ngâm thơ):
Em i í là cô gái nitơ
Tên thật azot anh ngờ làm chi
Không màu cũng chẳng vị gì
Sự cháy, sống chẳng duy trì trong em
Cho dù không giống oxi (Câu này hát ngân lên)
Thế nhưng em vẫn dịu hiền như ai
Nhà em ở chu kì 2
Có 5 electron ngoài bao che
Mùa đông cho tới mùa hè
Nhớ ô thứ 7 nhớ về thăm em
Diễn viên quần chúng: Nhớ về thăm em 
Diễn viên chính: 
Bình thường em ít người quen
Người ta vẫn bảo... sao trầm thế cô
Cứ như dòng họ khí trơ!
Ai mà ngỏ ý làm ngơ sao đành
Tuổi em mười bốn xuân xanh
Vội chi tính chuyện yến anh làm gì
Diễn viên quần chúng: tính chuyện yến anh làm gì
+ Nhóm 2: Tình huống như sau: Một diễn viên chính đọc phần còn lại của bài thơ cô gái nitơ (Khi đọc nhấn nhá ngữ điệu), các diễn viên còn lại trong nhóm làm diễn viên quần chúng nhấn mạnh lại một số câu của diễn viên chính.
Diễn viên chính: 
Em là cô gái nitơ
Có anh bạn trẻ oxi gần nhà
Bình thường anh chẳng lân la
Nhưng khi giông tố đến nhà tìm em
Gần lâu rồi cũng nên quen
Nitơ oxit (NO) sinh liền ra ngay
Không bền nên chất khí này
Bị oxi hóa liền ngay tức thì
Thêm một nguyên tử oxi (NO2)
Thêm màu nâu đỏ, chất nào đậm hơn
Diễn viên quần chúng: chất nào đậm hơn
Diễn viên chính: 
Bơ vơ cuộc sống cô đơn
Thủy tề thấy vậy bắt luôn về nhà
Gọi ngay hoàng tử nước (H2O) ra
Ghép luôn chồng vợ thật là ác thay
(2NO2 + H2O → HNO3 + HNO2)
Hờn đau bốc khói lên đầy
Nên tim em chịu chua cay một bề
Đêm giông tố rét đêm về
Oxi chẳng được gần kề bên em!
Vì cùng dòng họ phi kim
Cho nên cô bác hai bên bực mình
Oxi từ đó buồn tình
Bỏ em đơn độc một mình bơ vơ
(2NO D N2 +O2)
Em là cô gái nitơ
Lâu nay em vẫn mong chờ tình anh.
Diễn viên quần chúng: mong chờ tình anh.
+ Nhóm 3: Tình huống như sau: Diễn viên lên đọc lại toàn bộ bài thơ cô gái Nitơ có ghép nhạc chèo Thị Nở (ghép đoạn nhạc khua chuông gõ mõ), (hoặc có thể chuyển dưới dạng đọc rap).
Em là cô gái nitơ
Tên thật azot anh ngờ làm chi
Không màu cũng chẳng vị gì
Sự cháy, sống chẳng duy trì trong em
 Cho dù không giống oxi (câu này hát ngân lên)
Thế nhưng em vẫn dịu hiền như ai
Nhà em ở chu kì 2
Có 5 electron ngoài bao che
Mùa đông cho tới mùa hè
Nhớ ô thứ 7 nhớ về thăm em
Bình thường em ít người quen
Người ta vẫn bảo... sao trầm thế cô
Cứ như dòng họ khí trơ!
Ai mà ngỏ ý làm ngơ sao đành
Tuổi em mười bốn xuân xanh
Vội chi tính chuyện yến anh làm gì
	Em là cô gái nitơ
Có anh bạn trẻ oxi gần nhà
Bình thường anh chẳng lân la
Nhưng khi giông tố đến nhà tìm em
Gần lâu rồi cũng nên quen
Nitơ oxit (NO) sinh liền ra ngay
Không bền nên chất khí này
Bị oxi hóa liền ngay tức thì
Thêm một nguyên tử oxi (NO2)
Thêm màu nâu đỏ, chất nào đậm hơn
Bơ vơ cuộc sống cô đơn
Thủy tề thấy vậy bắt luôn về nhà
Gọi ngay hoàng tử nước (H2O) ra
Ghép luôn chồng vợ thật là ác thay
(2NO2 + H2O → HNO3 + HNO2)
Hờn đau bốc khói lên đầy
Nên tim em chịu chua cay một bề
Đêm giông tố rét đêm về
Oxi chẳng được gần kề bên em!
Vì cùng dòng họ phi kim
Cho nên cô bác hai bên bực mình
Oxi từ đó buồn tình
Bỏ em đơn độc một mình bơ vơ
(2NO D N2 +O2)
Em là cô gái nitơ
Lâu nay em vẫn mong chờ tình anh.
2.3.2. Giáo án dạy học bài Nitơ – Hóa học 11
2.3.2.1. Mục tiêu
a. Kiến thức 
- Nắm vững vị trí của nitơ trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. 
- Học sinh viết được cấu hình electron của nguyên tử nitơ và viết được cấu tạo phân tử của nó.
- Biết các tính chất vật lí, tính chất hóa học, điều chế và ứng dụng của nó.
 b. Kĩ năng
- Rèn luyện kĩ năng hoạt động nhóm, trình bày trước lớp.
- Vận dụng kiến thức liên môn Hóa học và văn học giúp phát triển kĩ năng mềm cho các em.
c. Về thái độ
- Tạo hứng thú học tập môn hóa học cho học sinh.
- Yêu thích môn nghệ thuật truyền thống là chèo.
2.3.2.2. Chuẩn bị bài dạy
- Sách giáo khoa.
- Bài thơ cô gái nitơ.
- Đoạn nhạc chèo Thị Nở.
2.3.2.3. Phương pháp dạy học
- Thảo luận nhóm – phương pháp đóng vai – trình chiếu
2.3.2.4. Tiến trình dạy học
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung
Hoạt động 1 (2 phút): Khởi động: Giáo viên trình chiếu một số hình ảnh: Hình 2.1 SGK trang 29 hóa học cơ bản 11, mẩu phân đạm và hỏi HS hình ảnh này liên quan đến nguyên tố naò?
HS trả lời
GV: chốt kiến thức
Hoạt động 2 (5 phút): GV chia lớp thành 3 nhóm, cử nhóm trưởng, thư kí, và phát mỗi nhóm một bút dạ, một giấy A0.
Nhóm 1: Tìm hiểu về vị trí, cấu tạo nguyên tử, tính chất vật lí của nitơ
Nhóm 2: Tìm hiểu về sự tạo thành NO, NO2 và một số tính chất của chúng.
Nhóm 3: Khắc sâu kiến thức mà nhóm 1, nhóm 2 đã trình bày.
HS làm việc theo nhóm viết vào giấy A0, cử người đóng vai (GV đã phân công sau khi học xong tiết 10).
Hoạt động 3 (10 phút): Đại diện nhóm 1 lên bảng đóng vai theo kịch bản ở trên.
Sau khi nhóm 1 đóng xong thì GV đặt câu hỏi cho cả lớp như sau: 
 Qua phần đóng vai của nhóm 1 em hiểu gì về vị trí, tính chất vật lí của nitơ. 
 -Viết cấu hình electron của nguyên tử nitơ? 
- HS trả lời.
- GV chốt kiến thức.
I. Vị trí và cấu hình electron nguyên tử
1.Vị trí
- Ô: 7
- Chu kì: 2
- Nhóm: VA
- MN = 14
- Cấu hình electron nguyên tử: 1s22s22p3
- Công thức cấu tạo: N ≡ N
2. Tính chất vật lí
- Điều kiện thường: Khí, không màu, không mùi, không vị.
- Không duy trì sự cháy và sự hô hấp.
- Tan ít trong nước.
Hoạt động 4 (5 phút): Tính chất hóa học nào của nitơ xuất hiện trong phần đóng vai của nhóm 1.
 GV: N có những số oxi hóa nào?
 Cho biết vai trò của N2 trong các phản ứng oxi hóa – khử.
 HS thảo luận và lên viết PTHH của N2 tác dụng với kim loại và H2.
GV: Cho biết trong phản ứng đó N2 thể hiện tính gì?
III. Tính chất hóa học.
- Ở nhiệt độ thường trơ về mặt hóa học.
- Các số oxi hóa của N: 
 -3, 0, +1, +2, +3, +4, +5
- Trong phản ứng oxi hóa – khử: N2 thể hiện tính oxi hóa hoặc tính khử.
1. Tính oxi hóa
a. Tác dụng với kim loại
 0 t0 -3
 3Mg + N2 → Mg3N2 (magie nitrua)
b. Tác dụng với H2
 0	t0,p -3
 N2 + 3H2 D 2NH3
	xt
Hoạt động 5 (10 phút): Đại diện nhóm 2 lên bảng đóng vai theo kịch bản ở trên.
Sau khi nhóm 2 đóng xong thì GV đặt câu hỏi cho cả lớp như sau: 
1. Trong phần đóng vai của nhóm 2 em thấy xuất hiện những hợp chất nào của nguyên tố N. 
2. Viết PTHH có thể xảy ra trong đoạn đóng vai trên.
3. Nêu đặc điểm của 2 khí NO, NO2.
4. Vai trò của N2 trong phản ứng với oxi. 
2. Tính khử
0 0 30000C +2 
N2 + O2 D 2NO
 N2 là chất khử.
2NO + O2 → 2NO2 (nâu đỏ)
Hoạt động 6 (3 phút): 
GV trình chiếu các hình ảnh về ứng dụng của nitơ và trạng thái tự nhiên của nitơ từ đó nêu lên những ứng dụng và trạng thái tự nhiên của N2.
IV. Ứng dụng
-Là thành phần dinh dưỡng chính của thực vật.
- Dùng để tổng hợp NH3, HNO3, phân đạm...
- Làm dung môi.
- N2 lỏng bảo vệ máu và các mẫu vật sinh học .
V. Trạng thái tự nhiên
- Tồn tại dạng đơn chất chiếm 78,16% thể tích không khí.
- Dạng hợp chất có nhiều trong khoáng chất NaNO3, gọi là diêm tiêu natri.
Hoạt động 7 (5 phút): 
GV trình chiếu sơ đồ sản xuất N2 trong công nghiệp. HS quan sát và trả lời các câu hỏi sau:
1. Tên của phương pháp sản xuất N2 trong công nghiệp là gì?
2. Nguyên tắc của phương pháp trên là gì?
 HS viết các phương trình phản ứng điều chế N2 trong phòng thí nghiệm.
VI. Điều chế
1. Trong công nghiệp
- Chưng cất phân đoạn không khí lỏng.
2. Trong phòng thí nghiệm
 t0 
 NH4NO2 → N2↑+ 2H2O
 t0
 NH4Cl +NaNO2 → N2↑+NaCl + 2H2O
Hoạt động 8: Củng cố (5 phút)
Đại diện nhóm 3 lên đọc lại toàn bộ bài thơ cô gái nitơ.
Có ghép nhạc chèo Thị Nở (ghép đoạn nhạc khua chuông gõ mõ), (hoặc có thể chuyển dưới dạng đọc rap).
Em là cô gái nitơ
Tên thật azot anh ngờ làm chi
Không màu cũng chẳng vị gì
Sự cháy, sống chẳng duy trì trong em
Cho dù không giống oxi 
Thế nhưng em vẫn dịu hiền như ai
Nhà em ở chu kì 2
Có 5 electron ngoài bao che
Mùa đông cho tới mùa hè
Nhớ ô thứ 7 nhớ về thăm em
Bình thường em ít người quen
Người ta vẫn bảo... sao trầm thế cô
Cứ như dòng họ khí trơ!
Ai mà ngỏ ý làm ngơ sao đành
Tuổi em mười bốn xuân xanh
Vội chi tính chuyện yến anh làm gì
	Em là cô gái nitơ
Có anh bạn trẻ oxi gần nhà
Bình thường anh chẳng lân la
Nhưng khi giông tố đến nhà tìm em
Gần lâu rồi cũng nên quen
Nitơ oxit (NO) sinh liền ra ngay
Không bền nên chất khí này
Bị oxi hóa liền ngay tức thì
Thêm một nguyên tử oxi (NO2)
Thêm màu nâu đỏ, chất nào đậm hơn
Bơ vơ cuộc sống cô đơn
Thủy tề thấy vậy bắt luôn về nhà
Gọi ngay hoàng tử nước (H2O) ra
Ghép luôn chồng vợ thật là ác thay
(2NO2 + H2O → HNO3 + HNO2)
Hờn đau bốc khói lên đầy
Nên tim em chịu chua cay một bề
Đêm giông tố rét đêm về
Oxi chẳng được gần kề bên em!
Vì cùng dòng họ phi kim
Cho nên cô bác hai bên bực mình
Oxi từ đó buồn tình
Bỏ em đơn độc một mình bơ vơ
(2NO D N2 +O2)
Em là cô gái nitơ
Lâu nay em vẫn mong chờ tình anh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 
Ban đầu, do chưa quen với phương pháp đóng vai nên học sinh gặp một số khó khăn nhất định trong việc diễn đạt và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện giáo viên hướng dẫn cách diễn xuất và thực hiện thao tác mẫu nên đã hướng các em đi đến cách diễn xuất và truyền tải kiến thức của bài một cách tự nhiên, tạo được hứng thú, tích cực và tập trung cao để chủ động lĩnh hội kiến thức của bài.
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại lớp 11A3 và lớp đối chứng là lớp 11A4 trường THPT Đông Sơn 1 năm học 2018-2019, đây là hai lớp có trình độ tương đương nhau về số lượng học sinh giỏi, khá và trung bình. 
Lớp thực nghiệm là lớp 11A3 được “sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học bài Nitơ - Hóa học lớp 11 để tạo hứng thú học tập cho học sinh”, còn lớp 11A4 là lớp đối chứng nên không áp dụng phương pháp trên mà chỉ sử dụng giáo án điện tử. Kết quả cho thấy:
- Về thái độ hứng thú, chú ý trong học tập: lớp thực nghiệm có 85% số học sinh chăm chỉ, hứng thú, háo hức khi giáo viên dạy học bằng phương pháp trên, 15% còn lơ là vì chưa biết cách diễn xuất. Còn lớp đối chứng 11A4 chỉ sử dụng giáo án điện tử trong mỗi tiết học thì có 80 % các em chú ý trong nửa thời gian đầu của tiết học khi học phần vị trí và cấu tạo nguyên tử và tính chất vật lí vì có nhiều hoạt động của học sinh và lượng kiến thức chưa nhiều. Nhưng sang đến nửa sau của tiết học khi học phần tính chất hóa học, ứng dụng, trạng thái tự nhiên và điều chế thì độ tập trung của học sinh giảm còn 60% vì nội dung này giáo viên truyền tải mang tính khô khan, học sinh chỉ quan sát kết quả mà không có hoạt động của học sinh nên học sinh không chú ý.
- Về

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_su_dung_phuong_phap_dong_vai_trong_day_hoc_bai_nito_hoa.docx