SKKN Sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học vào bài “người trong bao” của tác giả sê - Khốp Ngữ văn 11 – ban cơ bản
Hiện nay dạy văn trong nhà trƣờng phổ thông đang là một thử thách lớn với
mỗi giáo viên. Dạy thế nào cho hay, để đạt đƣợc hiệu quả cao, tạo sự hứng thú,
say mê cho học sinh quả thực là cả một vấn đề lớn, đòi hỏi mỗi giáo viên dạy
văn phải không ngừng suy nghĩ, tìm tòi để có thể giúp học sinh không chỉ hiểu
đúng văn bản mà còn phải đam mê, yêu thích môn văn.
Trong một vài năm trở lai đây, các em học sinh dƣờng nhƣ đã “xem nhẹ”
việc học tập môn văn. Bởi vì trên thực tế, các em học văn thƣờng chỉ thi vào các
khối C và D, nhƣng những khối thi này có ít trƣờng tuyển sinh đặc biệt là khối
C. Nghề nghiệp cho môn văn không phong phú.Vì thế các em thƣờng ít chon
các môn khối C để thi. Mặt khác các em cũng cho rằng môn văn thƣờng dài
dòng, phải học thuộc lòng, phải ghi nhớ nhiều nên các em càng ngại với môn
văn hơn.
Hơn thế nữa là trong các kì thi THPT quốc gia, phần văn học nƣớc ngoài
không đƣợc đƣa vào đề thi, cho nên các em học sinh càng không chú ý nhiều
đến phần văn học nƣớc ngoài. Nhƣng tôi nghĩ rằng các tác phẩm văn học nƣớc
ngoài đƣợc đƣa vào chƣơng trình THPT đều là những tác phẩm tiêu biểu cho
kho tàng văn học nƣớc ngoài, là tinh hoa văn hóa nhân loại. Dạy văn học nƣớc
ngoài cho học sinh không chỉ giúp các em cảm thụ đƣợc thế giới tâm hồn phong
phú của con ngƣời trong văn học mà còn giúp các em tiếp cận đƣợc vốn văn hóa
phong phú của nhân loại. Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có một nền văn
hóa riêng và khi chúng ta đƣợc tiếp xúc , đƣợc tìm hiểu về văn học của các nƣớc
sẽ giúp cho đời sống tâm hồn trở nên phong phú hơn và vốn tri trức đƣợc rộng
mở hơn. Đồng thời nâng cao khả năng tự tin khi bƣớc vào thời đại hội nhập
mang tính toàn cầu mà vẫn giữ đƣợc bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, vẫn
giữ đƣợc lòng tự hào dân tộc.Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên phải có phƣơng pháp
giảng dạy phù hợp để tạo sự hứng thú, đam mê cho học sinh
1 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KINH NGHIỆM SỬ DỤNG KẾT HỢP CÁC PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀO BÀI “NGƢỜI TRONG BAO” CỦA TÁC GIẢ SÊ- KHỐP NGỮ VĂN 11 – BAN CƠ BẢN 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hiện nay dạy văn trong nhà trƣờng phổ thông đang là một thử thách lớn với mỗi giáo viên. Dạy thế nào cho hay, để đạt đƣợc hiệu quả cao, tạo sự hứng thú, say mê cho học sinh quả thực là cả một vấn đề lớn, đòi hỏi mỗi giáo viên dạy văn phải không ngừng suy nghĩ, tìm tòi để có thể giúp học sinh không chỉ hiểu đúng văn bản mà còn phải đam mê, yêu thích môn văn. Trong một vài năm trở lai đây, các em học sinh dƣờng nhƣ đã “xem nhẹ” việc học tập môn văn. Bởi vì trên thực tế, các em học văn thƣờng chỉ thi vào các khối C và D, nhƣng những khối thi này có ít trƣờng tuyển sinh đặc biệt là khối C. Nghề nghiệp cho môn văn không phong phú.Vì thế các em thƣờng ít chon các môn khối C để thi. Mặt khác các em cũng cho rằng môn văn thƣờng dài dòng, phải học thuộc lòng, phải ghi nhớ nhiều nên các em càng ngại với môn văn hơn. Hơn thế nữa là trong các kì thi THPT quốc gia, phần văn học nƣớc ngoài không đƣợc đƣa vào đề thi, cho nên các em học sinh càng không chú ý nhiều đến phần văn học nƣớc ngoài. Nhƣng tôi nghĩ rằng các tác phẩm văn học nƣớc ngoài đƣợc đƣa vào chƣơng trình THPT đều là những tác phẩm tiêu biểu cho kho tàng văn học nƣớc ngoài, là tinh hoa văn hóa nhân loại. Dạy văn học nƣớc ngoài cho học sinh không chỉ giúp các em cảm thụ đƣợc thế giới tâm hồn phong phú của con ngƣời trong văn học mà còn giúp các em tiếp cận đƣợc vốn văn hóa phong phú của nhân loại. Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có một nền văn hóa riêng và khi chúng ta đƣợc tiếp xúc , đƣợc tìm hiểu về văn học của các nƣớc sẽ giúp cho đời sống tâm hồn trở nên phong phú hơn và vốn tri trức đƣợc rộng mở hơn. Đồng thời nâng cao khả năng tự tin khi bƣớc vào thời đại hội nhập mang tính toàn cầu mà vẫn giữ đƣợc bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, vẫn giữ đƣợc lòng tự hào dân tộc.Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên phải có phƣơng pháp giảng dạy phù hợp để tạo sự hứng thú, đam mê cho học sinh. Trong chƣơng trình sách giáo khoa ngữ văn 11, số lƣợng các tác phẩm văn học nƣớc ngoài không nhiều (chỉ có năm đơn vị bài), song yêu cầu lại rất lớn. Ngƣời giáo viên không chỉ giúp học sinh nắm vững nội dung kiến thức của bài mà việc giảng dạy văn học còn gắn liền với việc làm nổi bật một số nét văn của các dân tộc thể hiện qua các hình tƣợng văn học. Bời vì các nhà văn, nhà thơ thƣờng đƣợc coi là các nhà ngoại giao không hộ chiếu, những ngƣời mang lại tình hữu nghị và sự hiểu biết tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc. Do đó, một yêu cầu không thể thiếu là thông qua dạy văn để hiểu sâu hơn bản sắc văn hóa 2 của các dân tộc. Điều này sẽ giúp học sinh có thêm nhiều hứng khởi trong học tập, dẫn tới ý thức tự hào dân tộc và tình cảm quốc tế trong sáng. Trong những năm gần đây việc quan tâm cải cách giáo dục mà chủ yếu là đổi mới phƣơng pháp dạy học nói chung và phƣơng pháp dạy học văn nói riêng đƣợc Bộ Giáo dục và Đào tạo đặt lên hàng đầu. Đó là vấn đề bức thiết và là chiến lƣợc pháp triển của nền giáo dục nƣớc ta. Chủ trƣơng đổi mới phƣơng pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo là lấy học sinh làm trung tâm, nâng cao vai trò của học sinh trong giờ học. Giáo viên chỉ có vai trò hƣớng dẫn, chỉ đƣờng để học sinh tự nắm lấy tri thức. Từ đó giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác,kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui và niềm hứng thú trong học tập. Muốn đổi mới cách học, phải đổi mới cách dạy. Cách dạy sẽ quyết định cách học. Để học sinh có thể nắm bắt bài học một cách chủ động, giáo viên không chỉ sử dụng các tài liệu nhƣ SGK, SGV, các tài liệu tham khảo mà còn phải sử dụng đa dạng các phƣơng tiện, thiết bị dạy học nhƣ tranh ảnh, bảng phụ, các đồ dùng thí nghiệm trực quan... . Tuy nhiên, phƣơng tiện dạy học không chỉ dừng ở mức minh họa nội dung dạy học mà phải trở thành công cụ nhận thức, là một bộ phận hữu cơ của cả phƣơng pháp và nội dung dạy học. Do yêu cầu tăng hoạt động thực hành, nên khi xây xây dựng chƣơng trình cần đặt đúng vị trí của thiết bị dạy học bộ môn. Có thể nói, thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu đƣợc cho việc triển khai chƣơng trình sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phƣơng pháp dạy học hƣớng vào hoạt động tích cực,chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này, phƣơng tiện, thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm. Mặt khác, nƣớc ta đang bƣớc vào kỉ nguyên mới nhờ tiến bộ nhanh chóng của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực. Trong giáo dục đào tạo, công nghệ thông tin đã góp phần hiện đại hóa phƣơng tiện, thiết bị dạy học góp phần đổi mới phƣơng pháp dạy học. Việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ tạo ra đƣợc những ƣu thế nhƣ: giáo viên chuẩn bị bài dạy một lần thì sử dụng đƣợc nhiều lần, tạo ra khả năng để giáo viên trình bày bài giảng sinh động hơn, dễ dàng cập nhật và thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học hiện đại, học sinh không bị thụ động, có nhiều thời gian nghe giảng để đào sâu suy nghĩ. Có thể thấy, việc ứng dụng công nghệ thông tin nhƣ một thiết bị dạy học không những không thủ tiêu vai trò của ngƣời thầy mà trái lại còn phát huy hiệu quả hoạt động của ngƣời thầy giáo trong quá trình dạy học Tôi đã làm quen với công nghệ thông tin nhiều năm và rất trăn trở trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giảng dạy. Vài năm trở lại đây, tôi đã nhiều lần sử dụng công nghệ thông tin nhƣ là một thiết bị dạy học có hiệu quả trong các giờ dạy. Tôi thấy rằng, việc sử dụng phƣơng tiện điện tử kết hợp với các thiết bị dạy học khác nhƣ tranh ảnh, bảng phụ, các đoạn video clip... vào 3 việc giảng dạy là rất hiệu quả. Tôi đã thực hiện việc này nhiều lần, ở nhiều lớp khác nhau và thấy rằng các em học sinh rất hứng thú với những tiết giảng này, hiệu quả học tập đƣợc nâng cao hơn. Sau những lần tìm tòi, học hỏi và giảng dạy trên lớp, tôi đã rút ra đƣợc một số kinh nghiệm nho nhỏ trong việc sử dụng thiết bị điện tử kết hợp với các thiết bị dạy học khác và áp dụng kết hợp các phƣơng pháp vào một tiết đọc văn, cụ thể là bài học “Người trong bao” của tác giả Sê-khốp. Bài học này đƣợc học trong thời gian là 2 tiết. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Khi viết đề tài này tôi có mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự thành công chung của tiết dạy và vào lĩnh vực nghiên cứu này. Đồng thời, qua đề tài này tôi muốn đƣợc lắng nghe, tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp để đề tài của tôi hoàn thiện hơn, cũng nhƣ hoàn thiện hơn phƣơng pháp giải dạy của mình. Đồng thời qua đề tài này tôi cũng mong muốn lồng ghép nội dung rất thực tế là rèn luyện kĩ năng sống cho HS, giúp HS rút ngắn khoảng cách địa lý và lịch sử giữa các nền văn hóa để hoàn thiện bản thân mình. Cần cho học sinh thấy đƣợc tài năng bậc thầy của Sê – khốp trong nghệ thuật viết truyện ngắn: kết cấu đơn giản, ngắn gọn, chi tiết nghệ thuật đặc sắc, ngôn ngữ giản dị nhƣng đã tái hiện đƣợc một khung cảnh rộng lớn, nhiều màu sắc của nƣớc Nga đƣơng thời. Học sinh cần rèn luyện kỹ năng, phƣơng pháp tiếp cận một tác phẩm văn học chân chính. Qua tác phẩm học sinh tự rút ra bài học về cách sống để hoàn thiện bản thân. 1.3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này là bài học “Ngƣời trong bao” của tác giả Sê- khốp trong chƣơng trình Ngữ văn 11 – Ban cơ bản. Ngƣời nghiên cứu sau khi tham khảo tài liệu tìm hiểu về bài học đã viết đề tài này. 1.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Từ việc tìm hiểu đặc điểm chung về một vài phƣơng pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên áp dụng cụ thể vào một số tiết học cụ thể trong chƣơng trình Ngữ Văn 11- ban cơ bản. - Để đạt đƣợc kết quả nghiên cứu, tôi đã vận dụng tổng hợp các phƣơng pháp : quan sát, tìm hiểu, phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, thực nghiệm, xây dựng kế hoạch bài học, giảng dạy cụ thể trong một giờ đọc văn “Ngƣời trong bao” của tác giả Sê- khốp sau đó rút kinh nghiệm để triển khai đề này. 4 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM a. Định nghĩa chung về phƣơng pháp. - Phƣơng pháp : Theo tiếng Hilạp là " Mê tốt" có nghĩa là con đường, cách thức, phương tiện để đạt tới mục đích nhất định, để giải quyết những nhiệm vụ nhất định.( phƣơng pháp ở đây gắn liền với việc làm) ( theo Phƣơng pháp dạy học văn ) - Hêghen thì định nghĩa: Phương pháp là ý thức về hình thức của tự sự vận động bên trong của nội dung, nội dung nào phương pháp ấy( phƣơng pháp gắn liền với đối tƣợng) ( theo Hêghen bàn về văn học nghệ thuật). b. Phƣơng pháp dạy học. - Luật giáo dục, điều 28.2, đã ghi: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức và thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” - Theo giáo sƣ Nguyễn Ngọc Khoa thì: phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm làm cho trò tự giác tích cực tự học nhằm đạt tới mục đích dạy học. -Phƣơng pháp dạy học là cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Cách thức hành động bao giờ cũng diễn ra trong những hình thức cụ thể. Cách thức và hình thức không tách nhau một cách độc lập. Phƣơng pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học. Phƣơng pháp dạy học là những hình thức và cách thức, thông qua đó và bằng cách đó giáo viên và học sinh lĩnh hội những hiện thực tự nhiên và xã hội xung quanh trong những điều kiện học tập cụ thể. c. Một số phƣơng pháp dạy học trong nhà trƣờng. Có rất nhiều phƣơng pháp dạy học đƣợc sử dụng trong quá trình lên lớp nhƣ: Thuyết trình, giảng giải, phát vấn, nêu vấn đề, chia nhóm trao đổi thảo luận, giảng bình, phân tích, so sánh......trong các phƣơng pháp trên cần sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp trong từng bài dạy cụ thể cũng nhƣ từng đối tƣợng học sinh cụ thể. Trong các phƣơng pháp nêu trên tôi chỉ đề cập đến một số phƣơng pháp mà theo tôi là những phƣơng pháp dạy học tích cực phát huy đƣợc tính chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng, tạo hứng thú trong quá trình học văn, thể hiện hết đƣợc những nội dung của chƣơng trình sách giáo khoa lớp 11 theo chƣơng trình đổi mới. Đó là phƣơng pháp: Dạy học nêu vấn đề ,chia nhóm trong quá trình khai thác, khám phá tác phẩm, phương pháp phân tích, bình luận . c1. Phương pháp dạy học nêu vấn đề. Bản chất của phƣơng pháp này là phát huy khả năng cao nhất vốn có cho học sinh để học sinh tự tiếp nhận tri thức, khám phá tri thức và chuyển tri thức 5 từ bên ngoài vào cho học sinh. Dạy học tích cực hƣớng vào trí thông minh của học sinh làm cho học sinh năng động sáng tạo. Theo nguyên Bộ Trƣởng Bộ GD - ĐT Trần Hồng Quân thì " Phương pháp dạy học phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm việc một cách linh động tự chủ sáng tạo của học sinh ngay trong lao động học tập ở nhà trường. Người học giữu vai trò chủ động tích cực trong quá trình học tập không thụ động như phương pháp đọc chép cổ truyền" Các bƣớc tiến hành của phƣơng pháp dạy học này cơ bản gồm: - Tạo ra những vấn đề khó khăn bế tắc để buộc học sinh phải suy nghĩ tìm cách vƣợt qua thực hiện nhiệm vụ nhận thức. - Tạo ra vấn đề bằng nhiều phƣơng pháp nhƣ: phƣơng pháp lựa chọn, tạo nghịch lí, nêu giả định... - Đánh giá của thầy giáo sau quá trình trả lời của học sinh. Muốn thực hiện tốt phƣơng pháp này trong quá trình đọc hiểu văn bản văn học thì trƣớc hết cần có những sự chuẩn bị cần thiết nhƣ: + Giáo viên phải có sự chuẩn bị một hệ thống câu hỏi theo hƣớng gợi mở có ý thức trong việc lấy học sinh làm trung tâm. + Cuốn hút học sinh bằng những câu hỏi có tính phát hiện. + Khuyến khích bằng điểm số cho học sinh điểm cao nếu học sinh có những câu trả lời hay có tính phát hiện. + Cho học sinh có thói quen nhận xét câu trả lời của bạn mình có bổ sung và đƣa ra các ý kiến cũng nhƣ các cách hiểu vấn đề khác nhau. c2. Phương pháp dạy học chia nhóm trong quá trình khai thác khám phá tác phẩm. Chia nhóm không phải là một phƣơng pháp dạy học mới. Nhƣng trong quá trình dạy văn trong nhà trƣờng phổ thông do nhiều lí do cho nên phƣơng pháp này không đƣợc áp dụng hoặc có áp dụng nhƣng không chú ý thực sự đến hiệu quả của phƣơng pháp mà chỉ xem là một cách để ngƣời dự đánh giá là có sử dụng phƣơng pháp đa dạng trong quá trình giảng dạy. Cho nên việc áp dụng phƣơng pháp này không có hiệu quả. Vậy nên áp dụng phƣơng pháp này nhƣ thế nào? Cần sự chuẩn bị ra sao? Có sự hỗ trợ gì của các phƣơng tiện dạy học? - Thứ nhất giáo viên phải tổ chức lớp học thành những nhóm học tập, có thể hai bàn thành một nhóm trong đó có cử nhóm trƣởng và các thành viên. - Có những phiếu học tập theo nội dung học tập của từng tiết học. - Giao cho các nhóm thực hiện những nội dung giống hoặc khác nhau trong từng bài học cụ thể. Các bước thực hiện: - Giao nội dung cho từng nhóm và yêu cầu thực hiện. - Gọi từng nhóm trình bày nội dung sau một thời gian nhất định bằng nhiều hình thức khác nhau nhƣ: Trình bày tại chỗ, trình bày trên bảng, tốt nhất là trình bày bằng máy hắt qua máy chiếu đa năng. - Yêu cầu các nhóm khác nhận xét và bổ sung nội dung trả lời. 6 - Giáo viên nhận xét, thẩm định tính chuẩn xác. Chú ý: Phƣơng tiện phục vụ để thực hiện tốt phƣơng pháp trên bao gồm: Máy chiếu đa năng, máy hắt, băng đĩa hình, tờ thảo luận,.......... c3. Phương pháp phân tích, bình giảng Có thể nói trong việc dạy học môn ngữ văn không thể thiếu đƣợc phƣơng pháp phân tích, bình giảng bởi nếu không có phân tích, bình giảng sẽ không thấy đƣợc ý đồ nghệ thuật của nhà văn cũng nhƣ những sáng tạo độc đáo và tài năng của tác, thấy đƣợc những thành công của tác giả trong việc điều khiển những “con chữ” để tạo nên những hình tƣợng nghệ thuật bất hủ và những trang chi tiết, hình ảnh in đậm mãi trong tâm trí ngƣời đọc. . - Trong việc giảng dạy đọc hiểu văn bản văn học, cần phải có sự phân tích, chia nhỏ vấn đề để đi sâu vào từng khía cạnh của tác phẩm nhằm mục đích hiểu đƣợc những tầng ý nghĩa của văn bản và dụng ý của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. - Còn phƣơng pháp bình giảng để thấy đƣợc cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học, đem đến cho học sinh những xúc cảm thẩm mĩ, và thêm yêu, thêm quý tác phẩm văn học. Các bƣớc thực hiện: + Trong quá trình tìm hiểu tác phẩm văn học, có những chi tiết, hình ảnh “đắt” hoặc mang một ẩn ý sâu xa nào đó thì giáo viên yêu cầu học sinh phân tích hoặc bình. + Sau khi học sinh phân tích hoặc bình xong thì giáo viên hỏi ý kiến của những học sinh khác trong lớp và cuối cùng giáo viên sẽ cùng với học sinh đi đến những đánh giá chung nhất. 2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƢỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM - Một trong những trọng tâm của đổi mới chƣơng trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phƣơng pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hƣớng dẫn thích hợp của giáo viên nhằm phát triển tƣ duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phƣơng pháp và nhu cầu, khả năng tự học, bồi dƣỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập. Tiếp tục tận dụng các ƣu điểm của phƣơng pháp truyền thống và dần dần làm quen với những phƣơng pháp mới. - Trƣớc đây khi chƣa sử dụng kết hợp các phƣơng pháp dạy học tích cực cùng với việc sử dụng các phƣơng tiện dạy học, trong mỗi tiết dạy đọc văn, tôi vẫn thƣờng xuyên sử dụng nhiều phƣơng pháp khác nhau đặc biệt là phƣơng pháp đàm thoại phát vấn, nêu vấn đề để học sinh trả lời. Song tôi vẫn nhận thấy kết quả đạt đƣợc chƣa cao bởi chƣa thực sự phát huy đƣợc tính tích cực của học sinh, kết của giờ dạy đƣợc phản ánh nhƣ sau : + 65 % học sinh nắm đƣợc nội dung ngay tại lớp và có thể làm đúng bài tập, biết vận dụng vào các bài tập khác. + 35 % hiểu rất lơ mơ về bài học và không thể làm đƣợc các bài tập ứng 7 dụng. + 25 % học sinh tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài + 10 % học sinh khi giáo viên gọi lên mới trả lời và thƣờng trả lời chƣa đạt yêu cầu. Số còn lại chỉ ngồi nghe và ghi theo hƣớng dẫn của giáo viên, giờ học thiếu sôi nổi Điều tra bất kỳ 10 em thì có : 4 em hiểu bài, 3 em không rung động với nội dung bài học, 3 em cho rằng câu hỏi giáo viên đặt ra rất khó. - Truyện ngắn “Ngƣời trong bao” từ lâu đã đƣợc xem nhƣ là một kiệt tác của tác giả Sê- khốp vì đã xây dựng nên một điển hình nghệ thuật bất hủ là nhân vật Bê-li-cốp. Đây là tác phẩm mới vừa đƣợc đƣa vào chƣơng trình sách giáo khoa Ngữ văn 11. Là một tác phẩm văn học nƣớc ngoài, hình thức nhỏ nhƣng mang nội dung lớn, không rƣờm rà lời song ý lại sâu sắc, có sức gợi lớn, nhằm tạo ra khả năng liên tƣởng giữa độc giả và văn bản, giữa tác giả và độc giả. Vì thế, đây là tác phẩm tƣơng đối khó đối với học sinh, có nhiều em cảm thấy không hứng thú với tác phẩm này. Các em chỉ thấy đƣợc rằng nhân vật Bê-li- cốp rất buồn cƣời, rất khác ngƣời, và cảm thấy câu chuyện thật buồn chứ chƣa hiểu rõ đƣợc ý đồ của tác giả. - Vì vây, tôi thiết nghĩ cần phải giúp các em từ chỗ còn hiểu biết, mơ hồ, nông cạn về tác phẩm này cần phải hiểu thật đúng, thật sâu sắc về tác phẩm “Ngƣời trong bao” để thấy đƣợc cái hay của nghệ thuật viết truyện cũng nhƣ ý nghĩa của văn bản thể hiện cuộc đấu tranh giữa con ngƣời với cái “bao” chuyên chế và khát vọng đƣợc sống là mình, loại bỏ lối sống “trong bao”, thức tỉnh “con ngƣời không thể sống mãi nhƣ thế đƣợc”. - Để tiết học đƣợc sinh động hấp dẫn hơn, học sinh học bài đƣợc hứng thú, say mê và nắm bắt tinh thần của bài học một cách đúng đắn và sâu sắc nhất, tôi đã suy nghĩ và quyết định sử dụng phƣơng tiện điện tử có sử dụng các hình ảnh minh họa kết hợp với việc sử dụng linh hoạt các phƣơng pháp giảng dạy vào từng phần, từng mục của bài để soạn bài học này để giúp học sinh có thể vừa khắc sâu kiến thức về lý thuyết ,vừa củng cố kiến thức bằng các dẫn chứng sinh động, cụ thể, vừa có thể giúp học sinh biết cách phân tích hoặc bình giảng một văn bản văn học theo đặc trƣng thể loại. - Bài học đƣợc phân phối thời gian trong 2 tiết, nội dung bài học dài mà thời gian lại có hạn với biết bao điều cần khai thác, cần hỏi, cần để học sinh tìm hiểu, nắm bắt. Đối tƣợng tiếp nhận bài học lại là học sinh trƣờng trung du, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên nhiều em chƣa thực sự chú tâm vào học hành, còn hạn chế nhiều về năng lực cảm thụ, lỗ hổng kiến thức còn nhiều nên không phải em nào cũng yêu thích học văn và hơn nữa không phải em nào cũng có khao khát tìm kiếm khám phá về bài học. 2.3. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN BÀI DẠY: NGƢỜI TRONG BAO- TÁC GIẢ SÊ- KHỐP - Mức độ cần đạt của bài học này là: 8 +Nắm đƣợc đặc điểm tính cách và ý nghĩa xã hội của hình tƣợng nhân vật Bê-li-cốp. + Nhận biết đƣợc bút pháp nghệ thuật sắc sảo trong việc xây dựng hình tƣợng điển hình của Sê-khốp. - Về mặt kiến thức của bài: giúp học sinh nhận thức đƣợc + Bi kịch “ngƣời trong bao” Bê-li-cốp; tính cách khái quát và ý nghĩa xã hội của hình tƣợng này. + Tính cách nhân vật điển hình trong truyện ngắn Sê-khốp. - Về kĩ năng giúp học sinh có thể: + Đọc - hiểu văn bản theo đặc trƣng thể loại. + Phân tích tâm lí, tính cách nhân vật NỘI DUNG
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_ket_hop_cac_phuong_phap_day_hoc_vao_bai_nguoi_t.pdf