SKKN Sử dụng đồ dùng trực quan ứng dụng CNTT trong giờ học Lịch sử lớp 12, THPT

SKKN Sử dụng đồ dùng trực quan ứng dụng CNTT trong giờ học Lịch sử lớp 12, THPT

Trong những năm gần đây, vấn đề dạy và học lịch sử đang thu hút sự quan tâm chú ý của toàn xã hội. Thực trạng của việc dạy và học lịch sử đang là một đề tài “nóng” sau mỗi kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi Đại học. Trước sự quan tâm ấy, chúng tôi – những giáo viên dạy môn lịch sử luôn trăn trở về việc dạy học của mình. Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử, làm sao để các em học sinh yêu thích môn lịch sử và học môn lịch sử ngày càng có hiệu quả hơn. Hiện nay nghành giáo dục vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, người thầy giữ vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh tích cực chủ động, tìm tòi, khám phá, lĩnh hội kiến thức mới. Vì vậy, mỗi giáo viên cần có sự chủ động, sáng tạo tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú học tập bộ môn cho học sinh. Hòa chung trong xu thế phát triển của xã hội ngày nay, việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy là một việc làm rất cần thiết và mang tính tất yếu, góp phần rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất cần thiết của người công dân trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa

 Vậy, làm thế nào để học sinh có hứng thú trong giờ học Lịch sử? Đó là câu hỏi mà mỗi thầy giáo, cô giáo luôn trăn trở trước khi lên bục giảng. Xuất phát từ thực tế và những điều kiện sẵn có của nhà trường, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm :" Sử dụng đồ dùng trực quan ứng dụng CNTT trong giờ học Lịch sử lớp 12, THPT ".

 

doc 16 trang thuychi01 8261
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng đồ dùng trực quan ứng dụng CNTT trong giờ học Lịch sử lớp 12, THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
 Trong những năm gần đây, vấn đề dạy và học lịch sử đang thu hút sự quan tâm chú ý của toàn xã hội. Thực trạng của việc dạy và học lịch sử đang là một đề tài “nóng” sau mỗi kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi Đại học. Trước sự quan tâm ấy, chúng tôi – những giáo viên dạy môn lịch sử luôn trăn trở về việc dạy học của mình. Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử, làm sao để các em học sinh yêu thích môn lịch sử và học môn lịch sử ngày càng có hiệu quả hơn. Hiện nay nghành giáo dục vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, người thầy giữ vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh tích cực chủ động, tìm tòi, khám phá, lĩnh hội kiến thức mới. Vì vậy, mỗi giáo viên cần có sự chủ động, sáng tạo tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú học tập bộ môn cho học sinh. Hòa chung trong xu thế phát triển của xã hội ngày nay, việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy là một việc làm rất cần thiết và mang tính tất yếu, góp phần rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất cần thiết của người công dân trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa
 	Vậy, làm thế nào để học sinh có hứng thú trong giờ học Lịch sử? Đó là câu hỏi mà mỗi thầy giáo, cô giáo luôn trăn trở trước khi lên bục giảng. Xuất phát từ thực tế và những điều kiện sẵn có của nhà trường, tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm :" Sử dụng đồ dùng trực quan ứng dụng CNTT trong giờ học Lịch sử lớp 12, THPT ".
 2. Mục đích nghiên cứu
	Một trong những phương pháp đặc trưng của bộ môn Lịch sử là phải gây được hứng thú, phát huy được tính tích cực học tập của học sinh đó là sử dụng đồ dùng, công cụ dạy học đúng mục đích, yêu cầu của việc nhận thức. Ở đây người thầy có vai trò đặc biệt quan trọng giúp học sinh sử dụng đúng có hiệu quả theo nội dung của bài học. Bởi dạy học bằng ứng dụng công nghệ thông tin rất phong phú, đa dạng và sinh động như: hình ảnh, sơ đồ, lược đồ, băng hình...do đó người thầy phải giúp học sinh khai thác đúng nội dung. Từ đó các em có được sự hứng thú trong học tập và phát huy được tính sáng tạo, phát triển khả năng tư duy, hình thành các kỹ năng và bồi dưỡng tình cảm thông qua việc nắm bắt các sự kiện, hiện tượng. Giúp giáo viên và học sinh nhận thức đúng vai trò, vị trí của bộ môn Lịch sử trong nhà trường trung học phổ thông. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử tạo hứng thú hơn cho học sinh trong học tập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. [5]
 3. Đối tượng nghiên cứu.
	Đối tượng là học sinh lớp 12 tại trường THPT Quan Hóa.
 4. Phương pháp nghiên cứu.
	Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu: Thực tiễn soạn giảng bài học có ứng dụng CNTT vào các đối tượng, phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu, kiểm nghiệm bằng hai đối tượng: Tiết giảng có ứng dụng CNTT và tiết giảng không có ứng dụng CNTT.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
 1. Cơ sơ lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh. 
Đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các môn học nói chung, phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng đã được đặt ra và thực hiện một cách cấp thiết cùng với xu hướng đổi mới giáo dục chung của thế giới. Luật giáo dục sửa đổi đã chỉ rõ: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”. [6]
Tồn tại ở trường với tính cách là một khoa học, bộ môn Lịch sử có tác dụng nhất định đến việc hình thành thế giới quan, tình cảm đạo đức, phát triển năng lực nhận thức và hành động  cho học sinh. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng dạy và học tập môn Lịch sử chưa thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì thế việc đổi mới một cách toàn diện về nội dung lẫn phương pháp dạy học Lịch sử là vô cùng cần thiết. Trong một vài năm gần đây, phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng như: dạy học nêu vấn đề, dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ thông tinTất cả đều nhằm mục đích tích cực hoá hoạt động của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
Đặc biệt việc sử dụng công nghệ tin học để xây dựng bài giảng điện tử (hay giáo án điện tử) các môn nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng, được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu qủa tích cực trong việc đổi mới dạy và học. Thực hiện giáo án điện tử hay bài giảng điện tử giáo viên cần có sự hỗ trợ của máy tính. Toàn bộ kế hoạch lên lớp của giáo viên phải được lập trình sẵn. Các hoạt động dạy và học được thiết kế hợp lý trong một cấu trúc chặt chẽ, sử dụng các công cụ đa phương tiện bao gồm: các văn bản hình ảnh, âm thanh, phim minh hoạ để chuyển tải tri thức và điều khiển người học. Khi lên lớp bằng bài giảng điện tử, giáo viên phải thực hiện một bài giảng với toàn bộ hoạt động giảng dạy đã được chương trình hóa một cách sinh động nhờ sự hỗ trợ của các công cụ đa phương tiện đã được thiết kế trong bài giảng điện tử. 
Việc giảng dạy bằng bài giảng điện tử có những ưu điểm của nó. Đối với giáo viên, tuy phải đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị một bài giảng điện tử nhưng việc dạy học lịch sử bằng bài giảng điện tử giúp giáo viên hạn chế bớt phần thuyết giảng, có thời gian thảo luận và tăng cường kiểm soát đối với học sinh. Bài giảng điện tử giúp đa dạng hoá việc cung cấp kiến thức cho học sinh thông qua các công cụ trình diễn, người giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một khối lượng hình ảnh, phim tài liệu lịch sử liên quan đến nội dung bài học lịch sử mà học sinh được học, như vậy mà giờ học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy bằng bài giảng điện tử cũng không tránh khỏi những bất cập mà bản thân giáo viên nào cũng phải tìm cách khắc phục... 
 Đối với học sinh, việc học tập lịch sử thông qua bài giảng điện tử tạo nhiều hứng thú cho các em trong học tập, các em được tiếp cận, nhận thức các sự kiện lịch sử và bài học lịch sử sống động hơn, gần với quá khứ hơn. So với những bài giảng thông thường, học sinh phải mường tượng trong đầu những sự kiện, nhân vật mà thầy cô thuyết giảng thì với việc học trên bài giảng điện tử học sinh đã được trực quan sinh động với những sự kiện, nhân vật lịch sử một cách cụ thể giúp kích thích quá trình tư duy của học sinh, từ đó nội dung kiến thức lịch sử học sinh thu thập đủ hơn và in sâu hơn vào trong trí nhớ của các em. 
2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 2.1. Thuận lợi	
 a. Về phía giáo viên:
- Bước đầu đã tiếp cận sử dụng tương đối tốt các kỹ thuật dạy học đặc trưng bộ môn.
- Đã quen và chủ động với cách thức tổ chức các hoạt động dạy học.
- Phối hợp khá linh hoạt các kỹ thuật dạy học.
- Sáng tạo ra nhiều đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung các tiết dạy, đã thiêt kế các bài dạy bằng giáo án điện tử, vì vậy nhiều tiết dạy lịch sử trở nên sinh động , có sức lôi cuốn .
- Sử dụng vận hành các trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ tốt cho quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy...
 b. Về phía học sinh:
- Học sinh đã được quen dần với môn học có ứng dụng công nghệ thông tin.
- Phần lớn học sinh có ý thức học tập và yêu thích môn Lịch sử tích cực thực hiện được các yêu cầu, bài tập của giáo viên sau giờ học.
 2.2. Khó khăn.
 	Như chúng ta đã nói ở trên, lịch sử là một môn học đặc thù. Kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Có những sự kiện đã diễn ra cách ngày nay hàng trăm, hàng ngàn năm thậm chí lâu hơn. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi, khi nhận thức học sinh phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn ra trước mắt mình. Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học sinh THPT còn hạn chế nên việc sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh tái hiện là một nguyên tắc trong dạy học lịch sử. Trong khi đó các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu và thiếu đồng bộ, chưa kể đến phim tài liệu thì hầu như không có. So với yêu cầu đặt ra của bộ môn và định hướng đổi mới phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì có thể nói rằng : những phương tiện dạy học không đáp ứng được yêu cầu và không thể tạo nên hứng thú học tập cho học sinh.
3.Giải Pháp thực hiện
 3.1 Yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy lịch sử
	Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, đối với mỗi giáo viên phải có sự thích ứng, sáng tạo trong vận dụng công nghệ thông tin trong các bài giảng lịch sử. Tuy nhiên không phải bài nào cũng ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả. Bởi trong thực tế hiện nay nhiều giáo viên quá lạm dụng vào việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, dạy tràn lan không định hướng được kiến thức cần nắm cho học sinh. Giáo viên phải dựa vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng và rèn kĩ năng để sử dụng đạt mục đích đề ra. Vì thế giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ bài dạy, ứng dụng công nghệ thông tin mang lại hiệu quả cao nhất cho người học. [5]
 	 Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học thật hiệu quả, kết hợp với các phương pháp khác sẽ giúp giáo viên thực hiện tốt công việc này.
 3.2. Các biện pháp tiến hành ứng dụng CNTT trong dạy lịch sử
	Để việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử hiệu quả, có rất nhiều hình thức nhưng trong khuôn khổ của đề tài này tôi đưa ra 1 số vấn đề như sau:
 3.2.1. Sử dụng hình ảnh để minh họa cho nội dung bài học:
 	Một trong những lợi thế của môn học Lịch sử là có rất nhiều tư liệu bằng hình ảnh như các bức hoạ, ảnh chụp đặc biệt là các bộ phim tài liệu. Học Lịch sử là học quá khứ nên học sinh rất thích được xem những hình ảnh thực tế của quá khứ làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng với thời kì lịch sử đó. Nếu khai thác tốt hình ảnh sẽ hấp dẫn được học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn bài học, nhưng ngược lại cũng không tránh khỏi sự tò mò của học sinh dẫn tới sao nhãng việc tiếp thu kiến thức. Có hai hình thức sử dụng hình ảnh: [1]
a. Hình ảnh minh họa cho nội dung kiến thức:
Sau khi giáo viên đã trình bày song phần nội dung kiến thức của từng mục, từng bài giáo viên đưa ra các hình ảnh minh họa cho nội dung bài vừa học song, qua đó các em nhận thức được sâu hơn vấn đề.
Ví dụ: Lịch sử lớp 12.bài 10: Cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa nửa sau thế kỉ XX. Thànnh tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ.[1]
H1.Cừu đôli sinh sản vô tính. H2.Con người đặt chân lên mặt trăng
 b. Hình ảnh khắc sâu kiến thức:
	Giáo viên đưa ra hình ảnh và hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh sau đó rút ra những vấn đề kiến thức của bài học, nhằm khắc sâu kiến thức trọng tâm. Vấn đề này không khó nhưng giáo viên lại không hay chú ý thường bỏ qua hoặc làm thay cho học sinh.
*Ví dụ1: Lịch sử lớp 12. Bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950).
Mục II: Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16:
Giáo viên sử dụng hình “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp” trình chiếu trên màn hình lớn hướng dẫn học sinh khai thác nội dung kiến thức cơ bản, kèm theo câu hỏi gợi mở: Em biết gì về bức ảnh lịch sử này? Quan sát bức ảnh trên em có nhận xét gì về tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược?
	Sau khi học sinh trao đổi, trả lời xong, giáo viên nhận xét và kết luận về nội dung bức hình: Bức hình cả lớp đang xem trên màn hình là ảnh chụp “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp". Bức ảnh phản ánh một hiện thực lịch sử sinh động về các chiến sĩ trung đoàn Thủ đô quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Hành động quyết tử của chiến sĩ Trần Thành mãi mãi là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm cho các thế hệ thanh niên mai sau học tập”.
	Như vậy, việc trình chiếu bức tranh trên mành hình lớn để hướng dẫn học sinh quan sát, miêu tả kết hợp với câu hỏi gợi mở sẽ giúp học sinh phát huy tính tích cực, hứng thú trong học tập. Và nếu như không dạy ứng dụng công nghệ thông tin thì giáo viên cũng chỉ cần khai thác những nội dung trong sách giáo khoa là đủ thì học sinh dễ cảm thấy nhàm chán và giờ học không đạt được kết quả cao. Sau khi học sinh quan sát, suy nghĩ và trả lời, giáo viên kết luận sẽ hình thành trong đầu các em biểu tượng rõ nét, chân thực về hình ảnh về các chiến sĩ quyết tử quân Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Nhờ đó, các em sẽ khắc sâu, nhớ lâu kiến thức về sự kiện lịch sử này, không nhầm lẫn với các nhân vật và sự kiện lịch sử khác. [1]
Ví dụ 2 : - Bài 17. Phần II. Bước đầu xây dựng chế độ mới.
 Giải quyết giặc đói, giặc dốt và khó khăn về tài chính. 
Giáo viên chụp bức ảnh Hình 42 (Sách giáo khoa). Nhân dân góp gạo chống giặc đói và trình chiếu trên màn hình lớn, hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét về phong trào cứu đói của nhân dân ta trong những ngày đầu sau cách mạng Tháng Tám năm 1945.
	Khi khai thác, giáo viên nên bổ sung kiến thức, cụ thể hoá kiến thức bằng lời giảng hình ảnh. Bằng những câu chuyện cụ thể để tạo ấn tượng, làm bài giảng thêm sinh động hấp dẫn: “ Hũ gạo cứu đói ", “ Ngày đồng tâm ": Mỗi gia đình, mỗi bữa bớt khẩu phần ăn của cả nhà một nắm bỏ vào hũ, một tháng cả nhà nhịn ăn một bữa...... Giáo viên kể chuyện về tấm gương“ Nhịn ăn của chủ tịch nước" trong những ngày này để giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho các em. Tất cả mọi người, tất cả mọi nhà đều“ lập hũ gạo cứu đói", đều thực hiện“ Ngày đồng tâm" khi hũ gạo nhà mình đầy, đem tới nơi quyên góp gạo chung của cả làng....( giáo viên vừa giảng vừa cho học sinh trực quan vào trung tâm bức ảnh) chỗ gạo quý hiếm chắt chiu ấy, sẽ được đưa tới nơi đói gay gắt hơn, để đồng bào có được miếng cơm, bát cháo cho qua đi những ngày khốn khó. Đấy chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. [1]
3.2.2 Sử dụng các đoạn phim tư liệu để minh họa cho nội dung bài học:
 Có thể nói các thước phim tư liệu là nguồn tư liệu sống trong dạy học lịch sử bởi qua những thước phim này các em biết luôn được về thời kì quá khứ hào hùng của dân tộc. Tùy theo nội dung của bài giáo viên có thể đưa vào những đoạn phim tư liệu, những bài hát phù hợp làm phong phú thêm bài học, đồng thời thay đổi không khí trong một giờ học Lịch sử. Có hai hình thức sử dụng đoạn phim tư liệu:
a. Xem phim tư liệu bổ sung kiến thức vừa học.
* Ví dụ :Lịch sử lớp 12: Bài 12. Phần II. Mục 3: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài 1919 - 1925.
	Sau khi trình bày cho học sinh các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp, Liên Xô và sang Trung Quốc giáo viên cho học sinh xem đoạn video về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ khi Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước đến khi Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương của Lê Nin và tìm được con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam....Sau khi xem xong đoạn video này học sinh sẽ bổ xung và khắc sâu thêm kiến thức về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. [3]
b. Xem phim tư liệu rút ra những nội dung cơ bản của bài học.
* Ví dụ : Lịch sử lớp 12. Bài 16:.Phần IV. nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập 2/9/1945.
	Dạy tới phần nội dung của Tuyên ngôn độc lập, giáo viên dừng lại cho học sinh xem đoạn video đọc Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh " Hỡi đồng bào cả nước, tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ, suy rộng ra câu ấy có ý nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân qquyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi, đó là những quyền lợi không ai chối cãi được..... Câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh " Tôi nói đồng bào nghe rõ không" làm cho biển người đang sôi lên dường như lắng xuống... Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế dộ quân chủ cộng hòa. .....Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Sau khi học sinh xem song giáo viên có thể hỏi ? Nội dung bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam phản ánh những vấn đề gì? Vì học sinh vừa được xem song nên các em có thể rút ra được ngay nội dung cơ bản của bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, nó là sự kế thừa và tiếp nối những mặt tích cực của bản tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp, bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ để Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên một bản Tuyên ngôn hào hùng cho dân tộc Việt Nam, khẳng định với thế giới quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam.... Hơn nữa các em được nghe thực tế giọng của Bác Hồ đọc tuyên ngôn, các em sẽ phấn khởi hơn hứng thú hơn khi học những phần sau và dễ khắc sâu kiến thức của bài. [3]
3.2.3 Xây dựng và kết hợp sử dụng tranh, ảnh, đoạn phim để minh họa cho nội dung bài học:
Tôi sử dụng một số bức ảnh và một vài đoạn phim ngắn để minh hoạ cho 
 Ví dụ: Lịch sử lớp 12. Bài17 :Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946
 như sau:
1. Chèn các bức ảnh vào bài học:
a. Cách làm: Để chèn bức ảnh vào bài giảng ta cũng sử dụng một số thao tác trên Powerpoint.
	Trước hết ta cần có các bức ảnh thật hoặc một đoạn phim hoặc ảnh trang máy ảnh kỹ thuật số.Nếu là bức ảnh bằng giấy thì ta phải sử dụng máy quét để quét nó vào trong máy vi tính sau đó bắt đầu ta mở một Slide trên Powerpoint rồi chọn vị trí cần chèn rồi chọn Insert trên thanh công cụ.
	Chọn Picture/ From file/ chỉ ra file chứa ảnh rồi chọn bức ảnh cần chèn và nhấn Insert. Với cách làm như trên tôi chèn 2 bức ảnh vào bài này, đó là bức ảnh ''Nạn đói năm 1945'' và bức ảnh ''Những đồng giấy bạc đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ công hoà". [2]
b. Sử dụng:
	Hình ảnh: ''Nạn đói 1945'' hình ảnh này được sử dụng khi giáo viên dạy phần I: Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám. Mục 1- Khó khăn.
	- Khi nói tới những khó khăn mà chính quyền cách mạng gặp phải sau ngày 2/9/1945 cụ thể là về xã hội thì nạn đói cuối 1944 đầu 1945 chưa khắc phục được thì giáo viên đưa ra hình ảnh những người bị chết đói nằm trên đường và những thân hình gầy còm đang nằm trên đường cạnh cây cột mốc ''Thái Bình 7 km'' những hình ảnh ấy sẽ giúp HS hình dung một cách chân thực, rõ nét về nạn đói của nước ta trong năm 1945, đồng thời cũng thấy được sự độc ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, dưới sự thống trị tàn bạo của chúng đã làm cho gần 2 triệu đồng bào ta bị chết đói. Hậu quả không chỉ làm cho dân số, nguồn nhân lực nước ta bị suy giảm mà còn gây ra hậu quả lâu dài về mặt xã hội cho đất nước ta mà chúng ta còn phải khắc phục sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Hình ảnh này giúp HS hiểu rõ hơn những khó khăn, thử thách mà Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh phải đương đầu sau cách mạng.
Hình ảnh thứ 2 là '' Những tờ giấy bạc của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà'' đó là 22 tờ giấy bạc 1 đồng và 10 đồng của kho bạc nhà nước. Bức ảnh này được sử dụng khi dạy phần III mục 2. Giải quyết khó khăn về tài chính.
Khi dạy mục này GV chiếu cho HS xem hình ảnh này kết hợp với lời giảng.
	- Sau phong trào '' Tuần lễ vàng'' và quỹ độc lập thì sự khó khăn về tài chính do thiếu tiền, ngân sách trống rỗng đã được khắc phục. Trên cơ sở ấy thì chính quyền cách mạng đã cho in giấy bạc mới và phát hành trong cả nước từ ngày 23 thàng 11 năm 1946. Đây chính là những tờ giấy bạc đầu tiên của chính quyền độc lập nó thể hiện sự tự chủ của nhân dân ta về mặt kinh tế đồng thời cũng là mộ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_do_dung_truc_quan_ung_dung_cntt_trong_gio_hoc_l.doc