SKKN Sử dụng đồ dùng dạy học khi dạy bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7 tại trường PTDTBT THCS Yên Nhân, huyện Thường Xuân nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy

SKKN Sử dụng đồ dùng dạy học khi dạy bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7 tại trường PTDTBT THCS Yên Nhân, huyện Thường Xuân nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy

Môn Vật lí là một bộ môn khoa học thực nghiệm được toán học hóa ở mức độ cao với phương pháp nghiên cứu là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Vì vậy việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông không chỉ là công việc bắt buộc mà nó còn là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Một trong những tác dụng của thí nghiệm Vật lí là tạo ra sự trực quan sinh động trước mắt học sinh và cũng chính vì thế mà sự cần thiết của thí nghiệm trong dạy học Vật lí còn được qui định bởi tính chất của quá trình nhận thức của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Thông qua thí nghiệm Vật lí có thể tạo ra những tác động có chủ đích, có hệ thống của giáo viên đối với học sinh nhằm giúp học sinh có thể thu nhận được tri thức mới. Ngoài ra, thí nghiệm Vật lí còn góp phần giúp học sinh củng cố niềm tin khoa học nhằm hình thành thế giới quan khoa học duy vật biện chứng cho học sinh.

Sử dụng một cách hợp lí các thí nghiệm vật lí là việc làm không thể thiếu được trong mục tiêu nâng cao hiệu quả dạy học. Đó chính là một trong những cách thức để cung cấp kiến thức cho học sinh một cách chắc chắn và chính xác, làm cho nguồn thông tin học sinh thu nhận được trở nên đáng tin cậy hơn, cụ thể hơn, từ đó học sinh tăng thêm khả năng tiếp thu về những thuộc tính bản chất của các sự vật, hiện tượng và các quá trình phức tạp mà bình thường học sinh khó nắm vững được. Đó cũng chính là cách để rút ngắn thời gian lĩnh hội kiến thức của học sinh, dễ dàng gây được cảm hứng và sự chú ý của học sinh.

 

doc 15 trang thuychi01 8301
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng đồ dùng dạy học khi dạy bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7 tại trường PTDTBT THCS Yên Nhân, huyện Thường Xuân nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC
NỘI DUNG
TRANG
1
Mở đầu
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1 
1.2
Mục đích nghiên cứu
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu
3
1.4
Phương pháp nghiên cứu
3
2
Nội dung sáng kiến
4
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến
4
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
5
2.3
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm vói hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
11 
3
Kết luận, kiến nghị
13
3.1
Kết luận
13
3.2
Kiến nghị
13
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Môn Vật lí là một bộ môn khoa học thực nghiệm được toán học hóa ở mức độ cao với phương pháp nghiên cứu là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Vì vậy việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông không chỉ là công việc bắt buộc mà nó còn là một trong những biện pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Một trong những tác dụng của thí nghiệm Vật lí là tạo ra sự trực quan sinh động trước mắt học sinh và cũng chính vì thế mà sự cần thiết của thí nghiệm trong dạy học Vật lí còn được qui định bởi tính chất của quá trình nhận thức của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Thông qua thí nghiệm Vật lí có thể tạo ra những tác động có chủ đích, có hệ thống của giáo viên đối với học sinh nhằm giúp học sinh có thể thu nhận được tri thức mới. Ngoài ra, thí nghiệm Vật lí còn góp phần giúp học sinh củng cố niềm tin khoa học nhằm hình thành thế giới quan khoa học duy vật biện chứng cho học sinh.
Sử dụng một cách hợp lí các thí nghiệm vật lí là việc làm không thể thiếu được trong mục tiêu nâng cao hiệu quả dạy học. Đó chính là một trong những cách thức để cung cấp kiến thức cho học sinh một cách chắc chắn và chính xác, làm cho nguồn thông tin học sinh thu nhận được trở nên đáng tin cậy hơn, cụ thể hơn, từ đó học sinh tăng thêm khả năng tiếp thu về những thuộc tính bản chất của các sự vật, hiện tượng và các quá trình phức tạp mà bình thường học sinh khó nắm vững được. Đó cũng chính là cách để rút ngắn thời gian lĩnh hội kiến thức của học sinh, dễ dàng gây được cảm hứng và sự chú ý của học sinh.
	Để thực hiện thành công một thí nghiệm Vật lí cho kết quả chính xác, có tính thuyết phục cao trước hết đòi hỏi cần phải có đồ dùng đúng, đủ số lượng, đảm bảo chất lượng. Bên cạnh đó, giáo viên cần sử dụng thí nghiệm hợp lí, sáng tạo, đúng lúc, đúng chỗ để giúp học sinh tìm tòi, tiếp thu tri thức, khẳng định tính khoa học, chính xác của tri thức mà các em tiếp thu được. Có được những điều kiện như vậy thì thí nghiệm Vật lí mới phát huy được hết vai trò và ý nghĩa của nó trong việc lĩnh hội tri thức của học sinh. 
Tuy nhiên, trường PTDTBT THCS Yên Nhân huyện Thường Xuân là một trường của xã vùng cao có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều thiếu thốn. Các trang thiết bị, đồ dùng dạy học được Nhà nước trang bị từ nhiều năm trước đã bị hư hỏng nhiều, do đó đã làm mất hoặc giảm giá trị sử dụng. Một số các thiết bị còn sử dụng được nhưng thiếu chính xác hoặc có những thiết bị còn xa rời với nội dung trong sách giáo khoa, làm giảm tính thuyết phục với học sinh. Bên cạnh đó, nhà trường chưa có phòng học bộ môn, đồ dùng thí nghiệm còn ít, phòng thiết bị nghèo nàn, đồ dùng đã bị hư hỏng nhiều, việc sắp xếp chưa khoa học, gần như chỉ là kho chứa đồ dùng dạy học. Cũng do nhà trường chưa có phòng học bộ môn để tổ chức các giờ học Vật lí, nên việc di chuyển thiết bị thí nghiệm từ phòng học của lớp này sang phòng học của lớp khác đã làm cho giáo viên và học sinh vừa vất vả lại mất nhiều thời gian, công sức vào việc lắp ráp thí nghiệm, giữ gìn, bảo quản dụng cụ thí nghiệm. Do đó công tác mượn đồ dùng tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm gặp rất nhiều khó khăn và gần như không thể thực hiện được. Hơn nữa một tiết dạy Vật lí có nội dung khá dài, nếu làm thí nghiệm theo nhóm khó đảm bảo thời gian trong một tiết học. Mặt khác, học sinh nhà trường chủ yếu có học lực trung bình, yếu còn chưa quen với việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm, các em thường tò mò khi được giao đồ dùng thí nghiệm và đôi khi biến nó thành đồ chơi của riêng mình. Học sinh thường chưa nghiên cứu trước nội dung bài mới ở nhà nên khi giao thí nghiệm cho từng nhóm, các em gặp rất nhiều khó khăn trong việc lắp ráp, tiến hành và xử lí thí nghiệm và thu thập dữ liệu trong khoảng thời gian hạn hẹp của một tiết học do đó việc tiến hành thí nghiệm theo nhóm có khả năng thành công rất thấp. Tất cả những nguyên nhân trên và một số các nguyên nhân khác làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả dụng cụ thí nghiệm Vật lí theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng đã được định hướng theo sách giáo khoa. Học sinh ở trường tôi ít khi có đủ đồ dùng và các điều kiện cần thiết để làm thí nghiệm theo nhóm. Hầu hết các thí nghiệm mới chỉ dừng lại ở thí nghiệm biểu diễn và giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách làm, cách quan sát, thu thập thông tin từ thí nghiệm, xử lí số liệu để rút ra kết luận. Có một số thí nghiệm mà thiết bị nhà trường đã hư hỏng hoàn toàn thì đôi khi giáo viên còn phải “dạy chay”.
 Trước thực trạng về cơ sở vật chất và các điều kiện khách quan khác của nhà trường, sau nhiều năm công tác tại trường tôi luôn tự đặt ra câu hỏi cho mình rằng: cần phải làm gì để có thể làm tốt được các thí nghiệm trên lớp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ dạy? Có thể cải tiến các thiết bị sẵn có của nhà trường thay thế các thiết bị đã bị hư hỏng để phục vụ cho các tiết học khác nhau được không?
Riêng trong bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7, các đồ dùng thí nghiệm tại trường tôi đã bị hư hỏng nhiều, không đảm bảo cho các em làm thí nghiệm theo nhóm. Như vậy, nếu làm theo thí nghiệm hướng dẫn trong sách giáo khoa thì chỉ có một số ít các em được quan sát hiện tượng còn phần lớn các em học sinh sẽ không có đủ thời gian và điều kiện để quan sát hiện tượng để từ đó rút ra kết luận. Từ thực tế như vậy tại đơn vị, tôi đã cải tiến các thiết bị sẵn có tại đơn vị để thay thế các thiết bị đã bị hư hỏng tạo thành một bộ thí nghiệm mới. Từ thí nghiệm theo sách giáo khoa, tôi đã chuyển thành thí nghiệm biểu diễn để toàn bộ học sinh trong lớp có thể quan sát thấy hiện tượng xảy ra và tri thức được vấn đề cần nghiên cứu cùng một lúc, góp phần tăng thêm hứng thú học tập cho học sinh từ đó nâng cao hiệu quả giờ dạy. Do đó, tôi chọn đề tài “Sử dụng đồ dùng dạy học khi dạy bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7 tại trường PTDTBT THCS Yên Nhân, huyện Thường Xuân nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
	Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, đề xuất phương án sử dụng đồ dùng dạy học khi dạy bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7 tại trường PTDTBT THCS Yên Nhân, huyện Thường Xuân nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Đề tài nghiên cứu phương án sử dụng đồ dùng dạy học khi dạy bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7 tại trường PTDTBT THCS Yên Nhân, huyện Thường Xuân nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Để thực hiện được đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
a) Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
	b) Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
	Để tiến hành được thí nghiệm theo dự kiến, giáo viên cần tìm hiểu trong phòng thiết bị của nhà trường những đồ dùng nào còn dùng được để phục vụ cho thí nghiệm; ghi rõ số lượng, chất lượng đồ dùng. Tìm hiểu đồ dùng của các khối lớp khác, các bộ môn khác có thể sử dụng cho thí nghiệm.
	c) Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
2. Nội dung sáng kiến
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
	Trong bài “Sự truyền ánh sáng”, sách giáo khoa trình bày thí nghiệm hình 2.1 sách giáo khoa cho học sinh quan sát dây tóc bóng đèn đang sáng bằng ống thẳng và ống cong từ đó nhận xét về đường truyền của ánh sáng là đường thẳng. Nhận xét này là căn cứ để tổng quát thành định luật truyền thẳng của ánh sáng, đó là “Trong môi trường trong suốt và đồng tính, ánh sáng truyền đi theo đường thẳng”. Thí nghiệm này là tối ưu nếu có đủ đồ dùng để học sinh tiến hành theo nhóm và đảm bảo tất cả các em đều được quan sát. Tuy nhiên, do điều kiện của nhà trường không có đủ đồ dùng cho các em làm thí nghiệm theo nhóm và đảm bảo tất cả học sinh đều được quan sát hiện tượng cùng một lúc nên tôi đã thay thế thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng thí nghiệm biểu diễn đường đi của một chùm sáng hẹp song song (coi như là tia sáng) qua làn khói hương trong môi trường không khí để tất cả học sinh có thể cùng quan sát thấy đường đi của tia sáng. 
Từ mục tiêu bài học, tìm hiểu đường truyền của tia sáng từ đó khái quát thành định luật truyền thẳng của ánh sáng. Tôi đã xây dựng cơ sở lí thuyết như sau:
- Dùng nguồn sáng tạo ra chùm sáng hẹp song song, coi như là tia sáng.
- Chiếu cho tia sáng truyền trong môi trường không khí (qua làn khói hương) để học sinh quan sát thấy đường truyền của tia sáng.
- Dùng thí nghiệm để kiểm chứng đường truyền của tia sáng trong không khí là đường thẳng, bằng cách: Đánh dấu ba điểm A, B, C trên đường truyền của một tia sáng. Sử dụng sợi dây dù không dãn, kéo căng nối hai điểm đầu và cuối A, C thấy dây đi qua điểm B nằm giữa hai điểm A và C thì kết luận ba điểm A, B, C thẳng hàng hay ba điểm A, B, C cùng nằm trên một đường thẳng.
- Dùng nguồn sáng tạo ra các chùm sáng:
+ Chùm sáng song song: Chiếu hai tia sáng song song.
+ Chùm sáng hội tụ: Chiếu hai tia sáng song song qua thấu kính hội tụ để thu được chùm tia ló sau khi đi qua thấu kính là chùm tia hội tụ.
+ Chùm sáng phân kì: Chiếu hai tia sáng song song qua thấu kính phân kì để thu được chùm tia ló sau khi đi qua thấu kính là chùm tia phân kì.
Như vậy, trong thí nghiệm thay thế thì tia sáng vẫn truyền đi trong môi trường không khí và bằng cách kiểm tra tia sáng có thực sự truyền đi theo đường thẳng hay không như ở hình 2.2 sách giáo khoa ta vẫn có thể sử dụng thí nghiệm này để kiểm chứng. Mặt khác, bằng cách sử dụng các đồ dùng sẵn có trong phòng thiết bị là thấu kính hội tụ và thấu kính phân kì, ta còn có thể làm được thí nghiệm tạo ra chùm sáng hội tụ và chùm sáng phân kì cho học sinh quan sát làm tăng thêm tính trực quan, sinh động của tiết học.
	Như vậy, thí nghiệm thay thế giúp toàn thể học sinh đều được nhìn thấy hiện tượng cùng lúc, củng cố niềm tin vào bản chất sự việc của đối tượng đang được nghiên cứu. Từ đó giúp các em tiếp thu bài dễ dàng và nhanh hơn, tri thức được lưu giữ sâu hơn, tạo hứng thú học tập và niềm say mê nghiên cứu tìm tòi, sáng tạodo đó góp phần làm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua việc giảng dạy bộ môn Vật lí 7 ở trường trung học cơ sở với chương trình sách giáo khoa mới, tôi nhận thấy các thí nghiệm được trình bày trong sách rất phù hợp với kiểu bài dạy khám phá tri thức mới, các thí nghiệm đơn giản, nhìn thấy ngay được vấn đề mà học sinh cần nghiên cứu. Đồ dùng phục vụ cho các thí nghiệm này cũng rất đa dạng và phong phú. Nếu đáp ứng đủ đồ dùng, phòng học bộ môn và người thầy biết khai thác hết tác dụng của đồ dùng thì giờ học sẽ trở nên sinh động, học sinh hứng thú chủ động và tích cực tìm tòi để phát hiện kiến thức. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng đồ dùng dạy học do chất lượng đồ dùng không cao, tuổi thọ đồ dùng thấp, khó sử dụng nên nhiều thiết bị đã bị hư hỏng không sử dụng được hoặc có sử dụng thì hiệu quả không cao. Thực tế trong những năm qua giảng dạy tại trường, nhiều thí nghiệm chỉ đủ dùng cho giáo viên làm thí nghiệm biểu diễn cho học sinh quan sát chứ ít khi học sinh được trực tiếp làm thí nghiệm. Đặc biệt một số bài do thiết bị hư hỏng, mất mát không đủ điều kiện làm thí nghiệm, giáo viên phải sử dụng các bài giảng trình chiếu powerpoint hoặc các thí nghiệm ảo để học sinh quan sát và rút ra kết luận.
Với bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7, qua khảo sát đồ dùng trong phòng thiết bị còn có thể phục vụ cho tiết dạy, giáo viên thu được kết quả như sau:
+ Ống cong: 02 cái
+ Ống thẳng: 01 cái
+ Bóng đèn dây tóc: 01 cái
+ Đế lắp đèn dây tóc: 01 cái
+ Đèn pin: 0 cái
+ Màn chắn có đục lỗ: 0 cái
Như vậy, với số lượng thiết bị sẵn có tại phòng thiết bị của nhà trường thì không đủ điều kiện để giáo viên có thể dạy bài “Sự truyền ánh sáng” theo phương án thí nghiệm trình bày trong sách giáo khoa và không thể phân chia nhóm học sinh làm việc sao cho đảm bảo toàn bộ học sinh trong lớp có thể cùng lúc quan sát thấy hiện tượng tia sáng truyền đi theo đường thẳng. Nếu chỉ có một số học sinh được quan sát và giáo viên mô tả hiện tượng thì tiết học trở nên nhàm chán, giáo viên mất nhiều thời gian và khó khăn trong việc giảng giải hiện tượng cho học sinh. Khi đó các khái nệm mới được hình thành trở nên trừu tượng, không có tính thuyết phục, làm giảm niềm ham mê khám phá và được tận mắt chứng kiến của học sinh. Các lí do trên gây ảnh hưởng xấu trực tiếp đến hiệu quả giờ dạy và chất lượng học sinh.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trước thực trạng nêu trên của nhà trường, những khó khăn của giáo viên và học sinh gặp phải trong việc truyền thụ và lĩnh hội kiến thức. Sau nhiều năm giảng dạy tôi đã tìm tòi và khắc phục những khó khăn nêu trên tại đơn vị bằng cách thiết kế một bộ thí nghiệm mới thay thế thí nghiệm hình 2.1 và hình 2.2 sách giáo khoa để dạy bài “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7 bằng những dụng cụ thí nghiệm sẵn có tại đơn vị. Bộ thí nghiệm mới có thể đáp ứng được mục tiêu bài học là để cho tất cả học sinh trong lớp đều có thể quan sát thấy đường truyền của tia sáng là đường thẳng; dùng thí nghiệm để kiểm tra đường truyền của tia sáng là đường thẳng.
	Những dụng cụ cần chuẩn bị cho thí nghiệm gồm:
	+ 1 hình hộp chữ nhật trong suốt;
	+ 1 bộ nguồn sáng laser phát ra chùm tia sáng gồm ba tia song song;
	+ 1 thấu kính hội tụ;
	+ 1 thấu kính phân kì;
	+ 1 giá quang học;
	+ 1 màn hứng ảnh;
	+ 1 bút dạ;
	+ 1 sợi dây dù không giãn;
	+ 1 que hương;
	+ 1 bật lửa.
	Với những dụng cụ thí nghiệm như trên, tôi xin tóm tắt quá trình lắp ráp dụng cụ thí nghiệm và tiến trình dạy học tiết 2 – “Sự truyền ánh sáng” – Vật lí 7 khi sử dụng thí nghiệm thay thế thí nghiệm trong sách giáo khoa như sau:
* HOẠT ĐỘNG 1: Kiểm tra bài cũ, tổ chức tình huống học tập
* HOẠT ĐỘNG 2: Nghiên cứu tìm quy luật đường truyền của ánh sáng.
I. Đường truyền của ánh sáng
	- Để quan sát đường truền của tia sáng trong không khí, giáo viên thay thế thí nghiệm hình 2.1 sách giáo khoa bằng thí nghiệm do giáo viên bố trí
Hình 1: Thí nghiệm hình 2.1 sách giáo khoa
- Thí nghiệm do giáo viên bố trí như hình vẽ sau
Hình 2: Lắp ráp thí nghiệm
* Các dụng cụ dùng để làm thí nghiệm gồm: 
+ Hình hộp chữ nhật trong suốt; 
+ Giá quang học; 
+ Bộ nguồn sáng laser phát ra chùm tia sáng gồm ba tia song song; 
+ 1 que hương; 
+ Bật lửa.
- Giáo viên tiến hành thí nghiệm biểu diễn: 
+ Đốt cháy que hương đặt vào hình hộp chữ nhật trong suốt cho khói hương lan tỏa trong hộp
+ Bật nguồn sáng laser chiếu chùm tia sáng song song vào hình hộp chữ nhật có chứa khói hương. 
- Yêu cầu học sinh quan sát đường truyền của tia sáng và trả lời câu hỏi: Qua thí nghiệm em thấy đường truyền của ánh sáng trong không khí là đường gì?
Khi đó học sinh sẽ quan sát thấy được đường đi của tia sáng trong không khí qua làn khói hương như hình sau và trả lời được câu hỏi của giáo viên là: đường truyền của ánh sáng trong không khí là đường thẳng. 
Hình 3: Chiếu chùm tia song song vào khối hình hộp trong suốt
bên trong có chứa khói hương
Như vậy, bằng thí nghiệm biểu diễn, giáo viên đã tổ chức để tất cả học sinh cùng được quan sát thấy đường truyền của tia sáng trong không khí.	Để kiểm tra đường truyền của tia sáng có phải là đường thẳng hay không, giáo viên thay thí nghiệm hình 2.2 sách giáo khoa bằng thí nghiệm của giáo viên tự tạo.
Hình 4: Thí nghiệm hình 2.2 sách giáo khoa 
- Giáo viên đặt câu hỏi: Vậy có thật sự ánh sáng truyền đi theo đường thẳng như các em quan sát thấy hay không? Làm thế nào để kiểm tra được nhận xét trên của các em là đúng? Bằng các đồ dùng có trong bộ thí nghiệm, em hãy trình bày phương án thí nghiệm chứng tỏ ánh sáng truyền đi theo đường thẳng?
	- Giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày các phương án thí nghiệm kiểm tra đường truyền của tia sáng là đường thẳng.
	Sau khi phân tích các phương án thí nghiệm khác nhau do học sinh đưa ra, giáo viên đưa ra phương án thí nghiệm đúng, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm kiểm tra và thực hành thí nghiệm như sau:
	+ Điều chỉnh công tắc để nguồn sáng laser chỉ phát ra một tia sáng
	+ Chiếu tia sáng này đi là là trên một màn hứng ảnh
	+ Gọi ba học sinh lên làm thí nghiệm, các học sinh khác quan sát: một học sinh dùng bút dạ đánh dấu ba điểm lần lượt A, B, C trên đường truyền của tia sáng; hai học sinh còn lại dùng sợi dây dù không giãn kéo căng nối hai điểm A và C.
Hình 5: Chiếu tia sáng trên màn hứng ảnh, đánh dấu ba điểm 
trên đường truyền của tia sáng
Hình 6: Kiểm tra ba điểm A, B, C cùng nằm trên một đường thẳng
Học sinh cả lớp sẽ cùng quan sát thấy sợi dây đi qua cả 3 điểm A, B, C
	- Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: Sợi dây đi qua cả ba điểm A, B, C trên đường truyền của tia sáng. Vậy ba điểm A, B, C có đặc điểm gì?
	- Học sinh sẽ trả lời được: ba điểm A, B, C cùng nằm trên một đường thẳng
- Giáo viên hỏi: Vậy ánh sáng truyền đi theo đường gì?
	- Học sinh trả lời được: Ánh sáng truyền đi theo đường thẳng
	- Giáo viên kết luận và tổng quát thành định luật truyền thẳng của ánh sáng “Trong môi trường trong suốt và đồng tính, ánh sáng truyền đi theo đường thẳng”
	* HOẠT ĐỘNG 3: Nghiên cứu thế nào là tia sáng chùm sáng
	II. Tia sáng và chùm sáng
1. Biểu diễn đường truyền của tia sáng
	- Giáo viên làm thí nghiệm chiếu một tia sáng đi là là trên mặt một màn hứng ảnh, dùng phấn đánh dấu mũi tên chỉ chiều truyền của tia sáng từ S tới M và thông báo SM là một tia sáng. Thông báo quy ước biểu diễn tia sáng
Hình 7: Đường truyền của tia sáng SM trên màn hứng ảnh
	2. Ba loại chùm sáng
	- Giáo viên thông báo cách vẽ chùm sáng là chỉ vẽ hai tia sáng ngoài cùng của mỗi chùm sáng 
	- Giáo viên làm thí nghiệm biểu diễn các thí nghiệm sau cho học sinh cả lớp cùng quan sát và tìm từ thích hợp trong khung điền vào chỗ trống trong câu C3.
+ Chùm sáng song song: Điều chỉnh công tắc của nguồn sáng laser để nguồn sáng phát ra hai tia sáng tạo chùm sáng song song đi là là trên mằn hứng ảnh cho học sinh quan sát. 
Yêu cầu học sinh: Nêu đặc điểm của chùm sáng song song?
Hình 8: Chùm sáng song song
	Học sinh quan sát thí nghiệm và trả lời được: Chùm sáng song song gồm các tia sáng không giao nhau trên đường truyền của chúng
+ Chùm sáng hội tụ: Điều chỉnh công tắc của nguồn sáng laser để nguồn sáng phát ra hai tia sáng tạo chùm sáng song song, chiếu chùm tia song song này đi qua thấu kính hội tụ, cho chùm tia ló đi là là trên mằn hứng ảnh cho học sinh quan sát. 
Yêu cầu học sinh: Nêu đặc điểm của chùm sáng hội tụ?
Hình 9: Chùm sáng hội tụ
Học sinh quan sát thí nghiệm và trả lời được: Chùm sáng hội tụ gồm các tia sáng giao nhau trên đường truyền của chúng
+ Chùm sáng phân kì: Điều chỉnh công tắc của nguồn sáng laser để nguồn sáng phát ra hai tia sáng tạo chùm sáng song song, chiếu chùm tia song song này đi qua thấu kính phân kì, cho chùm tia ló đi là là trên màn hứng ảnh cho học sinh quan sát. 
Yêu cầu học sinh: Nêu đặc điểm của chùm sáng phân kì?
Hình 10: Chùm sáng phân kì
Học sinh quan sát thí nghiệm và trả lời được: Chùm sáng phân kì gồm các tia sáng loe rộng ra trên đường truyền của chúng
* HOẠT ĐỘNG 4: Vận dụng – Củng cố.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
	 Sau khi áp dụng đồ dùng tự tạo vào tiết dạy, tôi nhận thấy đã thu được một số hiệu quả sau:
	- Bộ thí nghiệm đã khắc phục được vấn đề thiếu trang thiết bị dạy học bộ môn tại đơn vị. Bộ thí nghiệm đảm bảo tính khoa học, chính xác khi mô tả sự vật hiện tượng cần nghiên cứu. 
- Về mặt trực quan sinh động, bộ thiết bị thí nghiệm đã đáp ứng được mục tiêu bài học đó là tất cả học sinh của lớp đều quan sát thấy hiện t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_do_dung_day_hoc_khi_day_bai_su_truyen_anh_sang.doc