SKKN Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Sinh học 12

SKKN Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Sinh học 12

Trong giảng dạy sinh học nói chung và giảng dạy sinh học 12 nói riêng, giáo cụ trực quan (mô hình, tranh ảnh, dụng cụ thiết bị và đặc biệt là sơ đồ hóa các kiến thức đã học ) là hết sức quan trọng và được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên việc khai thác và sử dụng đúng, hợp lý các giáo cụ này thì chưa hẳn các giáo viên đã có thời gian để đầu tư nghiên cứu kỹ và sử dụng hiệu quả vào bài dạy. Trong rất nhiều các giáo cụ, hình ảnh sơ đồ hóa về kiến thức đã học được xem là giáo cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy và học.

 Thực tế cho thấy, vẫn còn nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật”, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Vì vậy, việc hướng dẫn học sinh cách học, liên hệ kiến thức theo hệ thống là điều rất cần thiết trong quá trình dạy học. Một trong những phương pháp dạy học hiện nay giúp học sinh có thể khắc phục được các tồn tại trên là phương pháp thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy(BĐTD).

 

doc 21 trang thuychi01 15881
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Sinh học 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 Trang
1. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.2. Lí do chọn đề tài
Trong giảng dạy sinh học nói chung và giảng dạy sinh học 12 nói riêng, giáo cụ trực quan (mô hình, tranh ảnh, dụng cụ thiết bị và đặc biệt là sơ đồ hóa các kiến thức đã học) là hết sức quan trọng và được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên việc khai thác và sử dụng đúng, hợp lý các giáo cụ này thì chưa hẳn các giáo viên đã có thời gian để đầu tư nghiên cứu kỹ và sử dụng hiệu quả vào bài dạy. Trong rất nhiều các giáo cụ, hình ảnh sơ đồ hóa về kiến thức đã học được xem là giáo cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy và học.
	Thực tế cho thấy, vẫn còn nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật”, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Vì vậy, việc hướng dẫn học sinh cách học, liên hệ kiến thức theo hệ thống là điều rất cần thiết trong quá trình dạy học. Một trong những phương pháp dạy học hiện nay giúp học sinh có thể khắc phục được các tồn tại trên là phương pháp thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy(BĐTD).
	Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề  bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết  Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế sơ đồ là theo mạch tư duy của mỗi người.
Với học viên Giáo dục thường xuyên nói chung, đầu vào rất thấp, năng lực học tập rất kém cùng với đó là yếu tố vùng miền, phong tục tập quán...là những trở ngại không rễ để vượt qua. Do đó người thầy càng phải gia công sư phạm nhiều hơn, phải lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với đối tượng thì mới mong cải thiện được phần nào chất lượng, nâng cao hiệu quả học tập của học sinh. 
Được phân công giảng dạy sinh học lớp 12, tôi nhận thấy đây là phần kiến thức tương đối khó, trừu tượng, một tiết học lại gồm khá nhiều kiến thức, nếu giáo viên không hướng dẫn học sinh cách ghi nhớ, hệ thống hóa kiến thức thì kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh là rất hạn chế. Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng BĐTD để dạy học nhằm phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như hiệu quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học sinh học 12” nhằm nâng cao kết quả dạy học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm lí của học sinh GDTX, khả năng tư duy logic, khả năng ghi nhớ, phương pháp học bài, mà đề ra các biện pháp tổ chức dạy và học nhằm phát triển sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức cho học sinh. 
	- Giúp cho các em hiểu một cách sâu sắc hơn về khả năng ghi nhớ của bản thân, đồng thời tìm ra phương pháp dạy và học thích hợp với chương trình học hiện nay, phù hợp với xu hướng học tập ngày càng đổi mới và nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong tương lai.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu
 Đối tượng được áp dụng trong đề tài này rất rộng rãi, từ học sinh trung bình đến đối tượng học sinh khá, giỏi các lớp, vì đây là phương pháp dạy - học tuỳ theo đối tượng học sinh mà việc tổ chức, hướng dẫn, giao việc tìm ra kiến thức mới cho phù hợp, giúp các em hứng thú học tập hơn khi học thực nghiệm với sáng kiến này.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát thực tế
- Phân tích – tổng hợp
- Đối chiếu – so sánh
- Phương pháp định tính
- Phương pháp định lượng
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận
	2.1.1. Bản đồ tư duy
BĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. 
BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương.
	BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
Học sinh thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp học sinh dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả. 
 	Kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. 
2.1.2. Lập, phân loại BĐTD
* Các bước lập bản đồ tư duy
	- Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh, ngôn ngữ của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
+ Sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh, đặc biệt là các màu sắc bản thân yêu thích. 
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề.
	 + Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần được làm nổi bật dễ nhớ
	 + Chủ đề phải đủ to, rõ, nổi bật trọng tâm cần ghi nhớ.
 - Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
 	+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng.
- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ
+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Chúng ta hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng. 
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại BĐTD đã hoàn thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập.
2.2. Thực trạng của vấn đề 
2.2.1. Thuận lợi
	- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị .
	- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh
	- Chương trình môn Sinh học THPT có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp giảng dạy dùng BĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức.
	- Về cơ sở vật chất đã có đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập: phòng công nghệ thông tin, đèn chiếu, bảng phụ
	- Giáo viên được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng BĐTD trong giảng dạy.
	- Giáo viên và học sinh có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
	- Phương pháp sử dụng BĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực.
	2.2.2. Khó khăn 
 - Đây là phương dạy học mới nên giáo và học sinh không tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng
	- Nội dung môn Sinh học lớp 12 là khó đối với học sinh GDTX  nên giáo viên khó dạy, học sinh khó tiếp thu.
	- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng học sinh.
	- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số học sinh, không gian lớp học, trang thiết bị, đồ dung dạy học, thời gian tiết học
	- Năng lực học sinh thấp, nhất là học sinh GDTX nên đôi khi việc vẽ BĐTD trong học tập là điều không rễ ràng.
	- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là học sinh đối với bộ môn này đôi khi còn lệch lạc: chưa đầu tư, dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem thường hoặc học cho xong.
2.3. Giải pháp thực hiện
Giáo viên trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục phổ thông thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử dụng các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích ứng với từng hoạt động giúp học sinh tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên, việc sử dụng BĐTD là một công cụ phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện để tăng thêm phần hiệu quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng tâm là sử dụng BĐTD.
2.3.1. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
* Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng
- Giáo viên xác định chính xác cần kiểm tra những gì, mức độ kiến thức và kĩ năng mà học sinh đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt cho học sinh phải chính xác, rõ ràng để học sinh không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề.
- Giáo viên thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách học tốt, sách bài tập nhằm đối phó.
* Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng
- Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ nhất những hiểu biết của các em.
- Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của học sinh mà phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em.
- Thái độ và cách đối xử của giáo viên với học sinh có ý nghĩa quan trọng trong kiểm tra miệng. Giáo viên cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động của học sinh và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của học sinh.
- Trong quá trình học sinh đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không có lí do gì cần thiết giáo viên cũng không nên ngắt lời của học sinh. Cùng là một sai sót nhưng giáo viên phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi học sinh trả lời xong. 
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều học sinh: trong lúc gọi một số học sinh lên bảng thì giáo viên ra cho các học sinh ở dưới lớp câu hỏi khác sau đó thu vở nháp của một số em để chấm. 
- Khi tổ chức kiểm tra thì giáo viên phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây: khi một hay vài học sinh được chỉ định lên bảng thì các học sinh khác trong lớp cần phải làm gì ?. Giáo viên gọi một số học sinh trả lời câu hỏi và yêu cầu các học sinh ở dưới lắng nghe sau đó đưa ra nhận xét của mình khi giáo viên yêu cầu: “Bạn trả lời như vậy có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó của bạn không?” “Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?” Ngoài những câu cơ bản, Giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu hỏi bổ sung đó mà giáo viên có thể hình dung được chất lượng kiến thức của học sinh. 
* Sử dụng BĐTD.
Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp học sinh học tập có hiệu quả hơn.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng mà giáo viên có thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng bằng cách sử dụng BĐTD. Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn nên các BĐTD tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Ví dụ 1: Kiểm tra bài cũ tiết “Phiên mã và dịch mã” Sinh học 12:
Hoàn thành BĐTD sau:
- Giáo viên chuẩn bị sơ đồ trên bảng phụ, viết nhanh trên bảng, đưa lên phần mềm PowerPoint để không chỉ những em được gọi lên mà các em ở dưới lớp cùng hoàn thành sau đó giáo viên thu bài, nhận xét và chấm điểm cho một số học sinh.
Ví dụ 2: Trước khi học bài “Đột biến số lượng NST” Sinh học 12.
Hoàn thành BĐTD sau:
- Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi thường xuyên hướng dẫn học sinh cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng học sinh hoàn thiện những nội dung kiến thức đã học bằng BĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ những tri thức mà học sinh cần nắm vững. Sau đó, học sinh phải trình bày được những nội dung cần nắm vững trong bài học, học sinh dưới lớp tham gia nhận xét bổ sung và giáo viên là người chốt lại kiến thức. 
Qua đây, tôi thấy học sinh rất hào hứng và nhiệt tình tham gia, làm cho phần kiểm tra bài cũ không còn là áp lực với học sinh, các em không phải chỉ còn đọc thuộc lòng từng câu chữ, công thức mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp học.
2.3.2. Sử dụng BĐTD trong việc dạy kiến thức mới
* Những vấn đề tồn tại
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận dụng kiến thức mới của học sinh, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách học của trò là yếu tố quyết định.
- Phương pháp dạy của giáo viên 
+ Sử dụng phương pháp truyền thống chủ yếu là giáo viên độc thoại, độc quyền đánh giá, thuyết giảng làm HS nhàm chán không tập trung, chú ý bài học. 
+ Nội dung bám sát sách giáo khoa, ít liên hệ thực tiễn đời sống nên không giúp các em ghi nhớ bài một cách tốt nhất.
 + Giáo viên giữ vai trò chủ động điều khiển.
 + Không phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy.
 + Phương pháp, dụng cụ giảng dạy không khoa học.
 + Gây áp lực đến với học sinh dẫn đến học sinh bị ức chế.
- Phương pháp học của học sinh:
+ Chưa có sự chú trọng đến việc học bộ môn, học thuộc lòng một cách thụ động, ít có sự liên tưởng, liên hệ, tìm hiểu những tập tính, quy luật Sinh học ngoài thực tế nên dễ quên đi những kiến thức vừa học.
 + Quan điểm các em học để đối phó, để kiểm tra, thi cử lấy điểm, thành tích.
 + Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải nghe, ghi những gì mà giáo viên ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một cách máy móc không cần hiểu rõ bài để hôm sau trả bài. 
+ Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học.
+ Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ.
+ Một số em không chịu khó làm những bài tập cơ bản để ghi nhớ các kiến thức tốt hơn và lâu hơn. 
* Sử dụng BĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của học sinh.
Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của học sinh tôi đã tác động đến nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng quyết định của quá trình dạy - học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử dụng BĐTD hiệu quả mà tôi đã sử dụng.
- Đối với giáo viên:
+ Nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến sự ghi nhớ cũng như nguyên nhân dẫn đến sự quên của học sinh. Nắm được tâm sinh lý của học sinh GDTX để có phương pháp giảng dạy cho phù hợp với các em. Tạo bầu không khí học tập thoải mái, sinh động không gây áp lực cho các em để các em có thể ghi nhớ tốt hơn. 
+ Trong giờ lên lớp, giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm phát huy tối đa ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm của từng phương pháp từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức mới được nhanh chóng.
 + Ngoài những tài liệu trong sách giáo khoa, giáo viên cần tìm hiểu cung cấp cho học sinh nhiều tài liệu mới, tập tính, quy luật thực tế cuộc sống để giúp học sinh ôn tập và củng cố những kiến thức học ngay trên lớp một cách tốt hơn. Trong giờ học trên lớp, giáo có thể có những câu hỏi đơn giản mà thú vị nhằm kích thích học sinh tích cực học tập và tư duy độc lập.
 + Tổ chức cho các em học theo nhóm để các em có cơ hội phát huy khả năng độc lập của bản thân và tạo cơ hội cho các em có thể tự đánh giá, kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức lẫn nhau và của chính bản thân các em. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em có thể tự đánh giá, kiểm tra khả năng nắm tri thức của mình.. 
+ Giáo viên cho các em trình bày kiến thức mình có được, học sinh làm thí nghiệm, thực hành để các em có thể vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế.
- Đối với học sinh:
 	+ Chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
 	+ Biết phân phối thời gian học tập hợp lý cho từng môn học.
 	+ Lựa chọn phương pháp học riêng cho mình để ghi nhớ bài thật tốt.
 	+ Biết liên hệ, kết hợp tri thức đã học với thực tiễn.
 	+ Thường xuyên tổ chức học theo nhóm để trao đổi khả năng nắm vững các kiến thức đã học.
 	+ Khi có những thắc mắc về bài học cần chủ động hỏi giáo viên giảng dạy.
 	+ Vào lớp cần phải năng động, tự tìm tòi, học hỏi, học cách học
- Sử dụng BĐTD
Trước tiên tôi yêu cầu học sinh:
+ Làm bài tập về nhà trước khi đến lớp, xem trước bài học mới.
+ Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn vở của bạn cùng lớp để ghi lại. 
+ Ngoài các loại bút thông thường, học sinh cần trang bị thêm các loại bút dạ quang, bút màu để làm nổi những thông tin quan trọng.
+ Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn.
+ Chú ý lắng nghe những lời giảng của giáo viên. Không cần ghi lại mọi lời giảng của giáo viên mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động não chứ đừng chỉ ghi chép máy móc.
+ Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách hỏi lại giáo viên hay các bạn khác.
+ Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép. 
+ Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo khoa sẽ giúp bạn nhớ được các thông tin đó. 
Để sử dụng BĐTD trong khi dạy học kiến thức mới, tôi đã tổ chức các hình thức sau cho học sinh:
Khi dạy học sinh hoàn toàn bằng bảng tôi thường dành một góc bảng bên phải để cùng học sinh hoàn thiện BĐTD. Ví dụ khi dạy bài “Đột biến gen” Sinh học 12, sau khi đã kiểm tra bài cũ, tôi đi theo tiến trình và cách trình bày như sau:
Bảng ghi được chia làm 2 phần chủ yếu
Đột biến gen
I. Khái niệm và các dạng đột biến gen
1. Khái niệm
2. Các dạng đột biến gen
(GV và HS cùng tìm hiểu phần I. Sau khi học xong phần I, BĐTD xuất hiện thêm 2 nhánh “Khái niệm”; “Các dạng” và thêm các nhánh con, ví dụ như: “mất” “thêm” “thay thế” )
(Ở bảng bên phải cũng xuất hiện từ khóa “Đột biến gen”)
Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi nhớ thì BĐTD lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc giáo viên và học sinh đã hoàn thành xong BĐTD cho bài học.
Khi dạy học sinh hoàn toàn bằng máy chiếu, tôi thường dùng bảng như một “bảng nháp” để cùng học sinh hoàn thiện BĐTD. Ngược lại, khi dùng bảng, với những bài giảng có nội dung kiến thức ngắn, những lần đầu khi học sinh làm quen với BĐTD tôi vẽ trực tiếp trên phần mềm để học sinh dễ quan sát và định hướng những công việc cần làm. 
Bên cạnh đó, cũng có những tiết dạy tôi cho học sinh hoạt động nhóm: Sau khi đã học xong nội dung kiến thức bài học, trước khi sang phần bài tập; Củng cố, tôi cho học sinh hoàn thành BĐTD theo nhóm hoặc hoàn thành theo kĩ thuật “khăn trải bàn”. 
Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó học sinh phải lên 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_hoc_sinh_hoc_12.doc