SKKN Sử dụng bản đồ tư duy trong các tiết ôn tập Sinh học lớp 6 Trường THCS Tân Lập nhằm nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh
Theo điều 28.2 Luật giáo dục (14/6/2005) đã ghi: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS [4].
Cũng chính lí do đó mà trong quá trình giảng dạy hiện nay, việc sử dụng các phương pháp dạy học đòi hỏi người thầy luôn phải đặt ra cái đích, đó là giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo thái độ và động cơ học tập đúng đắn. Để từ đó HS có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới theo xu thế của thời đại và giải quyết phù hợp các vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư nghiên cứu kĩ các phương pháp đó, vận dụng phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng lớp.
Trong thực tế giảng dạy bộ môn Sinh học ở trường THCS Tân Lập, tôi nhận thấy rằng học sinh lớp 6 mới chuyển từ một môi trường tiểu học lên môi rường THCS đang còn rất bỡ ngỡ về cách học trong một môi trường mới, chính vì lí do đó, nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi nhớ kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được điểm cốt lõi trong bài học đó, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
Để nâng cao chất lượng dạy học, cần phải đổi mới phương pháp dạy học các môn học ở trường nói chung và môn Sinh học nói riêng. Công nghệ thông tin được ứng dụng vào môn Sinh học đã góp phần cải thiện sự nhàm chán và gây hứng thú học tập bộ môn cho HS. Để đa dạng hóa các hình thức dạy học, để khắc sâu kiến thức trong bộ não một cách lôgic mà lại phát huy được khả năng tiềm ẩn trong bộ não của HS, trong quá trình giảng dạy của mình, đặc biệt là ở các tiết ôn tập, tôi thường hướng dẫn HS ghi nhớ bài học dưới dạng từ khóa và chuyển cách ghi bài truyền thống sang phương pháp ghi bài bằng BĐTD. Tôi nhận thấy phương pháp này là thực sự cần thiết nhằm giúp HS rút ngắn thời gian học, giúp các em dễ nhớ, nhớ lâu, dễ dàng hệ thống hoá kiến thức với lượng lớn, đồng thời phát triển tư duy cho các em. Đặc biệt hơn nữa là trong tiết Ôn tập Sinh học 6 thì sử dụng PPDH bằng bản đồ tư duy thực sự rất hiệu quả.
Việc vận dụng Bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH. Sau mỗi chương hoặc mỗi phần. Nếu sử dụng bản đồ tư duy để hệ thống thì HS sẽ khắc sâu được những kiến thức đó một cách hệ thống và giúp các em ôn tập một cách nhanh nhất. Đó là lý do tôi viết sáng kiến ‘‘Sử dụng bản đồ tư duy trong các tiết ôn tập Sinh học lớp 6 Trường THCS Tân Lập nhằm nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh’’
1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Theo điều 28.2 Luật giáo dục (14/6/2005) đã ghi: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS [4]. Cũng chính lí do đó mà trong quá trình giảng dạy hiện nay, việc sử dụng các phương pháp dạy học đòi hỏi người thầy luôn phải đặt ra cái đích, đó là giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo thái độ và động cơ học tập đúng đắn. Để từ đó HS có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới theo xu thế của thời đại và giải quyết phù hợp các vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư nghiên cứu kĩ các phương pháp đó, vận dụng phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng lớp. Trong thực tế giảng dạy bộ môn Sinh học ở trường THCS Tân Lập, tôi nhận thấy rằng học sinh lớp 6 mới chuyển từ một môi trường tiểu học lên môi rường THCS đang còn rất bỡ ngỡ về cách học trong một môi trường mới, chính vì lí do đó, nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi nhớ kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được điểm cốt lõi trong bài học đó, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Để nâng cao chất lượng dạy học, cần phải đổi mới phương pháp dạy học các môn học ở trường nói chung và môn Sinh học nói riêng. Công nghệ thông tin được ứng dụng vào môn Sinh học đã góp phần cải thiện sự nhàm chán và gây hứng thú học tập bộ môn cho HS. Để đa dạng hóa các hình thức dạy học, để khắc sâu kiến thức trong bộ não một cách lôgic mà lại phát huy được khả năng tiềm ẩn trong bộ não của HS, trong quá trình giảng dạy của mình, đặc biệt là ở các tiết ôn tập, tôi thường hướng dẫn HS ghi nhớ bài học dưới dạng từ khóa và chuyển cách ghi bài truyền thống sang phương pháp ghi bài bằng BĐTD. Tôi nhận thấy phương pháp này là thực sự cần thiết nhằm giúp HS rút ngắn thời gian học, giúp các em dễ nhớ, nhớ lâu, dễ dàng hệ thống hoá kiến thức với lượng lớn, đồng thời phát triển tư duy cho các em. Đặc biệt hơn nữa là trong tiết Ôn tập Sinh học 6 thì sử dụng PPDH bằng bản đồ tư duy thực sự rất hiệu quả. Việc vận dụng Bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH. Sau mỗi chương hoặc mỗi phần. Nếu sử dụng bản đồ tư duy để hệ thống thì HS sẽ khắc sâu được những kiến thức đó một cách hệ thống và giúp các em ôn tập một cách nhanh nhất. Đó là lý do tôi viết sáng kiến ‘‘Sử dụng bản đồ tư duy trong các tiết ôn tập Sinh học lớp 6 Trường THCS Tân Lập nhằm nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh’’ 1.2. Mục đích nghiên cứu Việc sử dụng Bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy học môn Sinh học 6 qua các tiết ôn tập sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH. Sau mỗi chương hoặc mỗi phần. Nếu sử dụng bản đồ tư duy để hệ thống hóa kiến thức thì HS sẽ khắc sâu được những kiến thức đó một cách khoa học và giúp các em ôn tập một cách nhanh nhất. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Việc sử dụng BĐTD trong giảng dạy Sinh học 6 ở các tiết ôn tập để nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, đáp ứng được mục tiêu của giáo dục hiện nay. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo, nghiên cứu tài liệu hướng dẫn về phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực nói chung và phương pháp, kỹ thuật dạy học sử dụng bản đồ tư duy. Tham khảo SGK, SGV, sách chuẩn kiến thức kĩ năng bộ môn Sinh học. Sử dụng phần mềm mindmap thiết kế bản đồ tư duy. - Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát thái độ, mức độ hứng thú học tập của học sinh. - Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm dạy và học: Tích lũy các giờ dạy trên lớp, dự giờ đồng nghiệp, đồng nghiệp dự giờ góp ý. - Phương pháp thực nghiệm: Lựa chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng; áp dụng dạy thử nghiệm trên lớp. - Phương pháp phân tích: So sánh chất lượng giờ dạy, lực học, mức độ tích cực của học sinh khi chưa áp dụng SKKN với khi đã áp dụng SKKN. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Theo nghị quyết 29- NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 của BCH TW tại hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có ghi: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. [3] Trong hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tập trung thiết kế các hoạt động sao cho học sinh có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh các tri thức mới dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của thầy. Bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt động học là người học hướng vào việc cải biến chính mình, nếu người học không chủ động, tích cực, tự giác, không có phương pháp học tốt thì mọi nỗ lực của người thầy chỉ đem lại những kết quả hạn chế. Môn Sinh học là một môn học thuộc nhóm khoa học tự nhiên. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Mặt khác Sinh học là một bộ môn khó và mang tính trừu tượng cao vì nó nghiên cứu về các cơ thể sống, các quá trình sống và đặc biệt nó găn liền với hoạt động thực tiễn của con người. là môn học thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác.Vì vậy nắm bắt tốt các kiến thức sinh học sẽ góp phần nâng cao đời sống loài người. Do đó việc tìm ra phương pháp dạy học phù hợp đối với từng tiết dạy, từng đối tượng học sinh là một nhiệm vụ không hề dễ đối với một người giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2015 - 2016 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong các nhà trường phổ thông. Việc đổi mới phương pháp dạy cùng với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện kĩ thuật đã và đang phần nào đạt được những yêu cầu đặt ra như phương pháp tổ chức hoạt động nhóm của học sinh, phương pháp dạy học theo góc, dạy giáo án điện tử, ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin vào giảng dạy. Tuy nhiên, các phương pháp này đòi hỏi mất rất nhiều thời gian, trang thiết bị dạy học trong khi do điều kiện học tập ở nhà trường còn chưa trang bị được máy chiếu cho tất cả các lớp học và một tiết học trên lớp chỉ có 45 phút thì không đủ thời gian cho các hoạt động. Về phía giáo viên: trong quá trình giảng dạy các tiết ôn tập sau một chương hay sau một học kỳ để HS nắm được kiến thức trọng tâm, và ghi nhớ hệ thống kiến thức đã học là rất khó. Trong các quá trình đó, người dạy mà không vận dụng tốt các khâu lên lớp, chuẩn bị tốt các phương tiện cũng như phương pháp kĩ thuật dạy học cho phù hợp, người học sẽ tiếp thu bài không tốt. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đặc trưng bộ môn đồng thời hình thành cho học sinh phương pháp học hiệu quả từ đó giúp các em tích cực, chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức là một vấn đề bức thiết được đặt ra. Nhiều giáo viên mặc dù đã được tập huấn và biết các phương pháp dạy học tích cực nhưng việc vận dụng các phương pháp đó vào giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn: - Do nhiều giáo viên dạy các tiết ôn tập thường áp dụng phương pháp truyền thống là giáo viên đưa ra các câu hỏi, học sinh nhớ lại kiến thức trong các bài, các chương để trả lời. - Việc sử dụng phần mềm mindmap để thiết kế bản đồ tư duy của đa số giáo viên còn gặp khó khăn nên thường không thiết kế BĐTD trong các tiết ôn tập. Mặt khác, phần mềm mindmap khi cài đặt lên máy tính thường làm cho tốc độ xử lí của máy tính chậm lại nên nhiều giáo viên thường không cài đặt phần mềm này. Về phía học sinh: - Do chương trình Sinh học lớp 6 là phần mở đầu cho chương trình sinh học của bậc THCS, giúp HS bắt đầu làm quen với bộ môn khoa hoc chuyên nghiên cứu về thế giới sinh vật. Như vậy, trong quá trình dạy và học chúng ta sẽ thường gặp một số khó khăn như là: học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được điểm cốt lõi trong bài học, trong tài liệu tham khảo, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. - Tân Lập là một trong những xã thuộc huyện Bá Thước, điều kiện kinh tế- xã hội còn nhiều khó khăn, nên việc quan tâm của các bậc phụ huynh đối với việc học tập của con em mình còn hạn chế, nhiều học sinh chưa được tiếp cận với công nghệ thông tin, mặt khác các em lại không được học môn Mĩ thuật (do nhà trường không có giáo viên dạy Mĩ thuật) nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc áp dụng đề tài nghiên cứu. Trong thực tế, quá trình giảng dạy bộ môn sinh học lớp 6 ở trường THCS Tân Lập năm học 2013- 2014, 2014-2015, trước khi áp dụng đề tài nghiên cứu này là : Bảng số 1. Kết quả điểm kiểm tra 1 tiết sau tiết ôn tập, năm học 2013- 2014 và năm học 2014 – 2015 ( cả 2 lớp 6A và 6B): Khối Năm học Sĩ số Điểm dưới Tb Điểm Tb Điểm Khá Điểm Giỏi SL % SL % SL % SL % 6 2013-2014 50 7 14,0 21 42,0 16 32,0 6 12,0 6 2014- 2015 52 7 13,5 23 44,2 16 30,8 6 11,5 Bảng số 2. Kết quả khảo sát mức độ tích cực, chủ động học tập môn Sinh học của học sinh lớp 6 (2 lớp 6A và 6B) trường THCS Tân Lập qua các tiết ôn tập: Năm học Tổng số Rất tích cực Tích cực Bình thường Không tích cực SL % SL % SL % SL % 2013 - 2014 50 2 4,0 6 12,0 12 24,0 30 60,0 2014 - 2015 52 2 3,8 7 13,5 13 25,0 30 57,7 Qua quan sát trên lớp trong các giờ học Sinh học 6 ở các tiết ôn tập bằng phương pháp truyền đạt thông thường, tôi nhìn thấy các em chán nản không để tâm vào công việc học, thiếu hào hứng, thiếu tích cực chủ động trong học tập, vì nhiều em nghĩ rằng đây là tiết học ôn lại các kiến thức đã học do vậy mà nhiều em học chỉ để đối phó và trông sao cho nhanh hết tiết học, chính vì vậy mà kết quả chưa cao. Nhiều năm tôi trăn trở suy nghĩ phải chăng do cách tổ chức giờ học chưa thực phù hợp, áp dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp. Những năm gần đây, tôi đã vận dụng phương pháp dạy học có sử dụng bản đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học khác trong giảng dạy bộ môn mình phụ trách đã làm thay đổi căn bản suy nghĩ, cách học cũng như sự hứng thú, tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh từ đó đem lại hiệu quả cao trong học tập. Tổ chức dạy học theo phương pháp này sẽ giúp mỗi cá nhân trong nhóm phát huy được tính chủ động, tích cực sáng tạo trong hoạt động. Các em được tham gia một cách chủ động, tích cực sáng tạo, thoải mái. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập của HS trong các tiết ôn tập Sinh học 6 trường THCS Tân Lập thông qua sử dụng bản đồ tư duy. 2.3.1. Bản thân giáo viên phải nắm rõ vai trò của bản đồ tư duy, biết sử dụng phần mềm mindmap để thiết kế bản đồ tư duy . Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.. Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học ở một số tiết học cho thấy, sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên bản đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống Ưu điểm của bản đồ tư duy - Kích thích hứng thu học tập của HS. - Kích thích sáng tạo của HS. - Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức. - Giúp hệ thống hoá kiến thức. - Giúp ôn tập kiến thức. - Giúp ghi nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức. - Dễ phát triển ý tưởng. - Trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ do nó được thể hiện bởi màu sắc, liên kết, liên hệ giữa các ý của một vấn đề. - Dễ dạy, dễ học, dễ nhớ - Dễ thực hiện với bất kì điều kiện nào của các nhà truờng hiện nay: có thể dùng giấy, bút, phấn, bảng,... hoặc dùng phần mềm vẽ bản đồ tư duy (ứng dụng CNTT). Việc sử dụng phần mềm để vẽ bản đồ tu duy còn có thể liên kết với các file hình ảnh, âm thanh, video,... Rất tiện lợi cho GV trong giảng dạy, tăng cường năng lực sáng tạo cho HS. Hạn chế của bản đồ tư duy - Đôi khi mất nhiều thời gian cho HS tô, vẽ quá nhiều - Do mỗi người thể hiện bản đồ tư duy theo cách hiểu và sở thích của riêng mình nên khi nhìn vào bản đồ tư duy của một người khác lập ra thì cảm giác hơi rối mắt và đôi lúc khó hiểu. - Việc sử dụng phần mềm mindmap trên máy tính của nhiều giáo viên thấy khó khăn, khó thực hiện. thậm chí không biết thiết kế ra sao 2.3.2. Giáo viên nắm vững quy trình thiết lập bản đồ tư duy để hướng dẫn cho học sinh Bước 1: Lập bản đồ tư duy HS lập bản đồ tư duy theo nhóm hoặc cá nhân với các gợi ý liên quan đến chủ đề kiến thức của bài học. - Chọn từ trung tâm ( hay còn gọi là từ khóa) là tên cửa một bài hay một chú đề hay một nội dung kiến thức cần khai thác. - Vẽ nhánh cấp 1: Các nhánh cáp 1 chính là các nội dung chính của bài học hay chủ đề đó (hay tên các mục của sách giáo khoa) - Vẽ nhánh cấp 2,3 . Các nhánh con cấp 2,3,... chính là các nhánh con của nhánh con trước đó (hay nói rõ hơn nhánh con cấp 2,3,... là các ý triển khai của nhánh trước đó). Bước 2: Báo cáo, thuyết minh bản đồ tư duy ( vừa thiết lập ở bước 1) Các cụm từ, công thức, hình vẽ,... trên bản đồ tư duy thường ngắn gọn, các khái niệm, định lí,... thường viết ý chính chưa thành câu, vì vậy cần cho HS thuyết minh một cách đầy đủ. Một vài HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động này vừa giúp biết nõ việc hiểu kiến thức cửa các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn. Bước 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện bản đồ tư duy Tổ chức cho HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện bản đồ tư duy về kiến thức của bài học. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh bản đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. Khi hướng dẫn cho học sinh vẽ bản đồ tư duy trong 1 tiết học, giáo viên không nên gò bó học sinh theo một motyp nhất định mà phải tôn trọng các ý tưởng của học sinh, của nhóm, giáo viên chỉ gợi ý, định hướng và chỉnh sửa các lỗi của các em khi thiết kế bản đồ tư duy. 2.3.3. Hướng dẫn học sinh làm bản đồ tư duy Bước 1: Bắt đầu từ một chủ đề chúng ta sẽ ghi lại một từ hoặc một hình ảnh tượng trưng cho ý tưởng đầu tiên. Bước 2: Viết ra hoặc vẽ lại những điều đầu tiên xuất hiện trong đầu khi bắt đầu nghĩ vấn đề liên quan quanh chủ đề Bước 3: Khi các ý tưởng nảy sinh, hãy viết ra một hoặc hai từ mô tả ý tưởng đó trên các nhánh lớn, nhánh nhỏ Bước 4: Diễn dịch các ý tưởng dưới dạng các từ ngữ, hình ảnh, số hoặc biểu tượng Bước 5: Sử dụng bút màu để phân biệt các ý tưởng Bước 6: Thêm các liên kết, các mối liên hệ và có thể kết nối các ý phụ với ý chính 2.3.4. Vận dụng bản đồ tư duy vào giảng dạy Để giảng dạy theo bản đồ tư duy, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên bảng rồi cho học sinh tiếp tục lên phân nhánh bản đồ hay để học sinh chia thành từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ bản đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên định hướng lại từng nội dung cho học sinh. * Tiến trình dạy học trên lớp với bản đồ tư duy: Hoạt động 1: HS lập bản đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV. Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện bản đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh bản đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một bản đồ tư duy mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một bản đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Lưu ý: Bản đồ tư duy là một bản đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung một kiểu bản đồ tư duy, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ màu sắc và hình thức (nếu cần). * Giáo viên sử dụng bản đồ tư duy để hỗ trợ quá trình dạy tiết ôn tập sinh học 6 : - Dùng bản đồ tư duy để dạy tiết ôn tập: Sau mỗi chương hoặc mỗi phần. Nếu sự dụng bản đồ tư duy để hệ thống hóa kiến thức thì HS sẽ khắc sâu được những kiến thức đó một cách khoa học và giúp các em ôn tập một cách nhanh nhất Ví dụ 1: Dạy tiết 19 ôn tập sinh học 6 Đây là một tiết học hệ thống lại toàn bộ các kiến thức đã được học trong chương I, II, III của sinh học 6 để chuẩn bị cho tiết kiểm tra 1 tiết. Đối với bài này thì tôi tiến hành tổ chức như sau: Bước 1: GV gọi HS nhắc lại kiến thức đã học trong các chương. Chương I. Tế bào thực vật Chương II. Rễ Chương III. Thân Bước 2: GV hướng dẫn học sinh vẽ bản đồ tư duy theo các chương và trong mỗi chương tỏa ra các nhánh đó chính, Từ nhánh chính đó lại tỏa ra những nhánh nhỏ hơn là cấu tạo, chức năng Bước 3: Gọi đại diện HS từng nhóm lên bảng trình bày ý tưởng của mình. Sau đó cho các nhóm khác nhận xét và bổ sung. Bước 4: Giáo viên nhận xét, đánh giá kết quả của từng nhóm, cần nhận xét ưu, khuyết điểm của từng nhóm. Cố gắng động viên, khích lệ các em. Cuối cùng GV đưa ra bản đồ tư duy chuẩn để học sinh đối chiếu và hoàn thiện vào vở ghi. Nhận xét: Đối với tiết 19 Sinh học 6 này, khi áp dụng bản đồ t
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_cac_tiet_on_tap_sinh_hoc_lo.doc