SKKN Sử dụng bản đồ tư duy - Một phương pháp dạy và học Ngữ văn hiệu quả ở bậc THPT

SKKN Sử dụng bản đồ tư duy - Một phương pháp dạy và học Ngữ văn hiệu quả ở bậc THPT

Dạy học là một hoạt động đặc biệt. Nó là tổng hợp của nghệ thuật sử dụng các phương pháp sư phạm, cách thức truyền thụ kiến thức cũng như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xử lí tình huống sư phạm. Bởi vậy, người dạy luôn phải tìm tòi, đổi mới không ngừng để có thể đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người học.

1.2 Dạy học Ngữ văn cũng không phải ngoại lệ. Đó là một hoạt động đòi hỏi giáo viên phải trang bị nhiều kiến thức chuyên ngành, văn hóa, kĩ năng truyền đạt, cảm thụ.Tuy nhiên, nếu người dạy không tìm tòi các cách thức truyền thụ kiến thức, các phương pháp học tích cực, chủ động thì hoạt động dạy và học sẽ trở nên nhàm chán, không tạo được hứng thú, say mê cho người học.

 Môn Ngữ văn ở cấp THPT không được dạy như một môn khoa học nhằm trang bị cho học sinh những khái niệm khoa học mà giúp người học phát triển các năng lực, phẩm chất tổng quát và đặc thù: năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học. Ngoài ra môn Ngữ văn còn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Người dạy và người học đều xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản ở môn học này đó là: nghe, nói, đọc, viết. Bởi vậy, người dạy không những phải nắm chắc các kĩ năng, mục đích giảng dạy của môn học mà còn phải luôn cập nhật thông tin, làm mới bài giảng, cách truyền thụ bằng những phương pháp dạy học hiện đại.

1.3 Thực tế dạy và học Ngữ văn ở bậc THPT cho thấy tồn tại nhiều bất cập. Nhiều người chưa tìm được cách dạy, chưa áp dụng những phương pháp tiên tiến, chưa cập nhật. Nhiều phương pháp dạy học hiện đại mặc dù đã được giới thiệu, triển khai ở các sở GD, các trường THPT, trong các văn bản chỉ đạo chuyên môn hàng năm nhưng việc ứng dụng, đưa vào thực tế giảng dạy còn nhiều vướng mắc, khó khăn.

 

doc 20 trang thuychi01 14350
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng bản đồ tư duy - Một phương pháp dạy và học Ngữ văn hiệu quả ở bậc THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Dạy học là một hoạt động đặc biệt. Nó là tổng hợp của nghệ thuật sử dụng các phương pháp sư phạm, cách thức truyền thụ kiến thức cũng như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xử lí tình huống sư phạm... Bởi vậy, người dạy luôn phải tìm tòi, đổi mới không ngừng để có thể đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của người học. 
1.2 Dạy học Ngữ văn cũng không phải ngoại lệ. Đó là một hoạt động đòi hỏi giáo viên phải trang bị nhiều kiến thức chuyên ngành, văn hóa, kĩ năng truyền đạt, cảm thụ..Tuy nhiên, nếu người dạy không tìm tòi các cách thức truyền thụ kiến thức, các phương pháp học tích cực, chủ động thì hoạt động dạy và học sẽ trở nên nhàm chán, không tạo được hứng thú, say mê cho người học.
 Môn Ngữ văn ở cấp THPT không được dạy như một môn khoa học nhằm trang bị cho học sinh những khái niệm khoa học mà giúp người học phát triển các năng lực, phẩm chất tổng quát và đặc thù: năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học. Ngoài ra môn Ngữ văn còn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Người dạy và người học đều xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản ở môn học này đó là: nghe, nói, đọc, viết. Bởi vậy, người dạy không những phải nắm chắc các kĩ năng, mục đích giảng dạy của môn học mà còn phải luôn cập nhật thông tin, làm mới bài giảng, cách truyền thụ bằng những phương pháp dạy học hiện đại.
1.3 Thực tế dạy và học Ngữ văn ở bậc THPT cho thấy tồn tại nhiều bất cập. Nhiều người chưa tìm được cách dạy, chưa áp dụng những phương pháp tiên tiến, chưa cập nhật. Nhiều phương pháp dạy học hiện đại mặc dù đã được giới thiệu, triển khai ở các sở GD, các trường THPT, trong các văn bản chỉ đạo chuyên môn hàng năm nhưng việc ứng dụng, đưa vào thực tế giảng dạy còn nhiều vướng mắc, khó khăn. 
1.4 Phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy đã được khẳng định là một trong những phương pháp dạy học có nhiều ưu điểm không chỉ với môn ngữ văn mà còn ở nhiều môn học khác. Tuy nhiên, ở nhiều trường học, không ít giáo viên vẫn chưa nhìn thấy hết được những điều thú vị, hiệu quả từ phương pháp này. Một số giáo viên đã áp dụng nhưng chưa đồng bộ, khoa học, bài bản và hiệu quả. Bởi vậy, chúng tôi chọn đề tài: Sử dụng bản đồ tư duy - một phương pháp dạy và học Ngữ văn hiệu quả ở bậc THPT- nhằm góp một vài ý kiến vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, hiện đại cho nhiều đồng nghiệp. Đồng thời mong muốn góp một cái nhìn vào việc đổi mới cách dạy và học văn hiện nay, khi mà nhiều tiết dạy và học văn ở bậc THPT vẫn là: giáo viên độc chiếm lớp học, độc quyền chân lí, nhiều tiết học vẫn là thuyết giảng, thầy đọc trò chép, dạy máy móc, học rập khuôn khiến cho cả giáo viên và học sinh nhiều cảm thấy học văn nhàm chán, đơn điệu, thiếu hứng thú. 
2. Mục đích nghiên cứu
- Nhận ra những ưu thế của phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy trong việc tạo ra môi trường, không khí dạy học dân chủ, tích cực, hiện đại. 
- Chỉ ra cách thức giảng dạy môn ngữ văn bằng bản đồ tư duy trong việc đọc hiểu văn bản, ôn tập hệ thống hóa kiến thức, việc sử dụng bản đồ tư duy trong hoạt động tự học của học sinh. Đó cũng là cách học tích cực chủ động, hiện đại chiếm nhiều ưu thế vượt trội hơn những phương pháp học truyền thống khác.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Bản đồ tư duy
- Áp dụng bản đồ tư duy trong các bài học chủ yếu thuộc chương trình ngữ văn 10 THPT. 
- Học sinh các lớp 10A5, 10A9 trường THPT Nông Cống 1
4. Phương pháp nghiên cứu 
 Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: dự giờ đồng nghiệp, nhận xét rút kinh nghiệm từ những bài giảng này.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Thống kê, xử lí số liệu
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận 
1.1 Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đã đề ra mục tiêu tổng quát: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
 Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Theo hướng phát triển mạnh năng lực và phẩm chất người học, bảo đảm hài hòa đức, trí, thể, mỹ; thực hiện tốt phương châm mới: Dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân
 Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã quy định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.” Để thực hiện mục tiêu này, giáo dục phổ thông cần “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống văn hóa, lịch sử, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”[3].
 Nghị quyết 88 đã xác định những yêu cầu cần đạt được về phẩm chất, năng lực của học sinh. 8 phẩm chất chính là: Nhân ái - Khoan dung, Chuyên cần - Tiết kiệm, Trách nhiệm - Kỷ luật, Trung thực - Dũng cảm [3]. Trong đó 3 năng lực chung mà môn học và hoạt động giáo dục nào cũng cần và có thể hình thành, phát triển cho học sinh, gồm: năng lực tự chủ, năng lực hợp tác và năng lực sáng tạo. Nhóm thứ hai là những năng lực đặc thù do một hoặc một vài môn học kiến tạo thành, bao gồm: năng lực sử dụng ngôn ngữ (gắn với các môn Ngữ văn, Ngoại ngữ), năng lực thẩm mỹ (gắn với các môn Nghệ thuật), năng lực tính toán (gắn với Toán và các môn khoa học tự nhiên), năng lực tin học và năng lực thể chất.
 Rõ ràng, khi mục tiêu giáo dục đào tạo được thay đổi căn bản, thì bắt buộc chương trình khung, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo cũng phải thay đổi phù hợp.  Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm tiến bộ, trưởng thành. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta được nêu trong văn kiện Đại hội XII, về thực chất, là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực này, hiệu ứng của nó sẽ làm biến đổi tích cực nhiều mặt của đời sống xã hội Việt Nam, là sự bồi đắp “nguyên khí quốc gia”, làm cho nền học vấn nước nhà hưng thịnh, đất nước phát triển bền vững
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Đặc trưng môn học
 2.1.1 Thứ nhất: Môn Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong nhà trường phổ thông
 2.1.2 Thứ hai: Ngữ văn là môn học công cụ, mang tính nhân văn. Các đặc trưng này thể hiện qua những mục tiêu cơ bản của nó và cách tiếp cận những mục tiêu đó. Môn Ngữ văn giúp HS phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của HS và công việc của các em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học.
 2.2.3 Thứ ba: môn Ngữ văn ở trường phổ thông không được dạy học như một bộ môn khoa học nhằm trang bị cho HS hệ thống các khái niệm khoa học. Tất cả các năng lực và phẩm chất trên đây đều được phát triển thông qua các hoạt động dạy học, xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ bản: đọc, viết, nói và nghe. Các kiến thức lí thuyết về tiếng Việt, lịch sử văn học, lí luận văn học và tập làm văn chủ yếu được dùng như là phương tiện tiến hành các hoạt động dạy học đó. 
2.2 Thực trạng vấn đề
2.2.1 Thực tiễn dạy học Ngữ văn ở các trường THPT trong thời gian gần đây cho thấy cách dạy học Ngữ văn vẫn theo kiểu cũ, theo lối mòn thầy đọc trò chép. Nhiều giáo viên chưa biết chọn lọc kiến thức trọng tâm nên thường nhồi nhét rất nhiều kiến thức, không dành cho học sinh trao đổi, trình bày ý kiến của mình. Học sinh ít được bàn luận, đưa ra ý kiến riêng. Rất nhiều GV vẫn còn dạy theo kiểu áp đặt yêu cầu học sinh phải theo, phải ghi nhớ, và phải nhắc lại, viết lại. không ít người dạy theo kiểu nghiên cứu, đưa ra quá nhiều kiến thức hàn lâm, khó hiểu, khiến học sinh ngại học, bị áp lực và nặng nề. Bởi vậy mà học sinh đã học một cách thụ động, thiếu sáng tạo, không biết cách tự học. Không biết khai thác kiến thức trong SGK. Không xác định được trọng tâm kiến thức, thiếu sự hợp tác giữa thầy và trò giữa trò với trò bởi vậy tiết học thường ít hứng thú, đam mê. Không ít học sinh học văn vì điểm số, học để thi, qua môn, tốt nghiệp. Mặt khác, nhiều giáo viên chưa truyền được ngọn lửa đam mê của mình đến học sinh nên những tiết học Ngữ văn thường là đối phó cho xong. 
2.2.2 Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng dạy và học văn đáng buồn như đã nói ở trên. Tuy nhiên, một nguyên nhân rất dễ nhận thấy đó là giáo viên chưa biết áp dụng những phương pháp dạy học tích cực, hiện đại, và việc sử dụng BĐTD vẫn chỉ được áp dụng thưa thớt trong các tiết dạy. Thực tế, từ năm học 2011 – 2012 Bộ Giáo dục và Đào tạo nói chung và Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa nói riêng có tổ chức nhiều lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, về ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, trong đó có sử dụng BĐTD. Tuy nhiên, việc ứng dụng phương pháp dạy học tích cực này còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Một số giáo viên đã áp dụng nhưng chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, không ít trường THPT và giáo viên còn xem nhẹ hình thức dạy học này.
3. Sử dụng BĐTD - Một phương pháp dạy học Ngữ văn tích cực, hiệu quả
 Ở SKKN này, chúng tôi, xin giới thiệu phương pháp bản đồ tư duy vốn được mệnh danh là “công cụ vạn năng cho bộ não” - là phương pháp dạy học đầy sáng tạo, hiệu quả hiện đang được ngành giáo dục khuyến khích đưa vào thực hiện trong giảng dạy và học tập, trong đó có dạy học Ngữ văn ở bậc THPT.
3.1. Bản đồ tư duy 
 Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Phương pháp này được phát triển vào cuối thập niên 60 của thế kỉ XX, bởi Tony Buzan, giúp ghi lại bài giảng mà chỉ dùng các từ then chốt và các hình ảnh. Cách ghi chép này nhanh, dễ nhớ và dễ ôn tập hơn. Nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng BĐTD trong giảng dạy, học tập, làm việc.. từ 15 - 20 năm nay.
 Phương pháp BĐTD khai thác khả năng ghi nhớ và liên hệ các dữ kiện lại với nhau bằng cách sử dụng màu sắc, một cấu trúc cơ bản được phát triển rộng ra từ trung tâm, chúng dùng các đường kẻ, các biểu tượng, từ ngữ và hình ảnh theo một bộ các quy tắc đơn giản, cơ bản, tự nhiên và dễ hiểu. Với một Bản đồ tư duy, một danh sách dài những thông tin đơn điệu có thể biến thành một bản đồ đầy màu sắc, sinh động, dễ nhớ, được tổ chức chặt chẽ. Nó kết hợp nhịp nhàng với cơ chế hoạt động tự nhiên của não chúng ta đó là dựa trên tưởng tượng và liên kết. Việc nhớ và gợi lại thông tin sau này sẽ dễ dàng, đáng tin cậy hơn so với khi sử dụng kỹ thuật ghi chép truyền thống. So với các cách thức ghi chép truyền thống, thì phương pháp bản đồ tư duy có những điểm vượt trội như sau:  Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng. Quan hệ hỗ tương giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan trọng thì sẽ nằm vị trí càng gần với ý chính. Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức bằng thị giác. Ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn. Thêm thông tin dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản đồ. Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ. Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng, bất chấp thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh chóng và linh hoạt cho việc ghi nhớ. 
 Chỉ cần một số bước cơ bản, chúng ta sẽ có được một BĐTD theo ý muốn đó là: xuất phát từ trung tâm của tờ giấy và kéo sang một bên, dùng một hình ảnh hay bức tranh cho ý tưởng trung tâm, sử dụng màu sắc cho các ý tưởng, nối nhánh chính với hình ảnh trung tâm, sử dụng các đường cong cho các tiểu ý, sử dụng các từ khóa ngắn gọn cho mỗi dòng.. tất cả nhằm kích thích bộ não, tăng khả năng ghi nhớ và sáng tạo.
  Bởi vậy, có thể khẳng định rằng: bản đồ tư duy là một phương pháp học tích cực, hiệu quả trong giáo dục và ngày càng trở thành xu thế trong dạy học hiện đại, nhất là trong thực tế nhiều phương pháp dạy học khác đã trở nên lạc hậu và lỗi thời, không đem lại hiệu quả giáo dục. 
3.2 Ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy và học Ngữ văn
3.2.1. Trong dạy học Ngữ văn ( đối với giáo viên)
 * Dạy bài mới
 Nhiều nghiên cứu đều chỉ ra rằng: dạy văn không chỉ là dạy cảm thụ, không chỉ là nắm bắt được vẻ đẹp của hình tượng và ngôn từ, không chỉ là giáo viên bình giảng bằng lời đơn thuần mà hoạt động này đòi hỏi nhiều phương pháp học trực quan. Trực quan là một trong những nguyên tắc dạy học cơ bản. Trăm nghe không bằng một thấy. Con người thiếp nhận thông tin bằng nhiều kênh: thị giác, thính giác, xúc giác. Ðáng tiếc là trong nhà trường chúng ta hiện nay, nguyên tắc này không được coi trọng (đặc biệt là với các môn khoa học xã hội), HS thường chỉ được nghe giảng chứ ít có cơ hội được nhìn, được làm thí nghiệm. Bảng thống kê sau sẽ cho ta thấy tầm quan trọng của trực quan trong dạy học 
Hoạt động học
Ðọc
Nghe
Nhìn
Thảo luận
Thí nghiệm
Giải thích
Nhớ và hiểu
10%
20%
30%
50%
70%
90%
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, toàn bộ thế giới nghệ thuật trong không hiện lên một cách trực tiếp như trong phim ảnh mà hiện lên gián tiếp qua ngôn từ nên để hiểu được tác phẩm người đọc phải có khả năng liên tưởng, tưởng tượng. Quá trình đọc tác phẩm trải qua các bước: hiểu nghĩa đen của từ ngữ, hình ảnh, từ đó khám phá ra ý nghĩa biểu tượng của hình tượng. Việc sử dụng tranh ảnh, đường nét, hình vẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giờ giảng. Bản đồ tư duy chính là công cụ lí tưởng, là trợ thủ đắc lực của giáo viên trong giờ dạy văn.
 Bản đồ tư duy là công cụ lý tưởng cho việc giảng dạy và trình bày các khái niệm trong giờ học. Bản đồ tư duy giúp giáo viên tập trung vào vấn đề cần trao đổi cho học sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan về chủ đề mà không có thông tin thừa. Giáo viên không cần thuyết giảng quá nhiều mà sẽ trình bày các khái niệm chính, các ý trọng tâm của bài, bám vào các ý trọng tâm này để bình giảng, phân tích ra các ý chân rết. Hiệu quả giảng bài sẽ được tăng lên. Có một điều thú vị, trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể thêm ngay vào bản đồ tư duy bài giảng của mình những ý tưởng hay, đột phá mà giáo viên chợt nghĩ ra hay từ sự đóng góp của học sinh. Giáo viên làm việc này bằng cách thêm từ khoá vào nhánh tương ứng hoặc tạo ra một nhánh mới.
 Hình 1 BĐTD Đọc văn: Truyện Kiều- Tác giả Nguyễn Du
 Sử dụng BĐTD trong các giờ đọc hiểu văn bản có ý nghĩa cực kì quan trọng không chỉ trong việc triển khai một cách rành mạch ý chính của bài học mà còn giúp giáo viên chuyển tải nhanh nhất, hiệu quả nhất những ý trọng tâm cần truyền thụ cho học sinh. Chẳng hạn: khi học về Tác giả Nguyễn Du, thay vì bắt học trò ngồi chép đầy vở những ý về cuộc đời, sự nghiệp văn học, những tác phẩm chính, nội dung và nghệ thuật, giáo viên có thể bắt đầu từ giữa bảng, kéo một nét sang trái hoặc phải, tạo thành một nhánh tương ứng với một ý chính, sau đó đi vào từng nhánh nhỏ: thuở nhỏ, trưởng thành và ..kết hợp với đó là những vần thơ, những câu chuyện về cuộc đời Nguyễn Du. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh bổ sung vào các nhánh kiến thức. Cứ như vậy giáo viên đặt câu hỏi và yêu cầu học sinh cùng mình tạo các nhánh con cho nhánh lớn này. Sau đó chuyển sang nhánh hai với ý lớn 2 cho đến hết các ý quan trọng. Ở các khâu này giáo viên có thể dùng phấn màu khác nhau để phân biệt các nhánh, nếu có khiếu hội họa, có thể vẽ một số hình ảnh chủ đạo của bài học để tạo sự hứng thú, sôi nổi cho tiết học. Hoặc giáo viên có thể chuẩn bị trước ở nhà, sau đó dán lên bảng. Bản đồ tư duy chuẩn bị trước ở nhà thường có tác dụng là có thể chuẩn bị công phu, các hình vé đẹp, đồng thời tiết kiệm được thời gian thầy và trò trên lớp. Giáo viên vẫn có thể trình bày SĐTD một cách khái quát với những nét lớn trên bảng. Sau đó, ở phần củng cố và tổng hợp kiến thức có thể dán sơ đồ đã chuẩn bị lên để HS có một hình dung khái quát nhất, cụ thể nhất. Quá trình này nhờ các đường nét mà kích thích bán cầu não của người học, khiến các em nhớ kiến thức lâu, cụ thể và rõ ràng. 
 Hay ở tiết đọc văn: Trao duyên, bản đồ tư duy sẽ giúp giáo viên giải quyết được nhiều vấn đề hóc búa. Đây là một bài học khó, không chỉ vì khoảng cách thời đại mà còn vì những vấn đề đặt ra trong đoạn trích này có nhiều khái niệm thuộc phậm trù văn hóa trung đại khó hiểu, khó hình dung. Nhất là với những học sinh lớp 10. Thế nên, việc sử dụng bản đồ tư duy sẽ là công cụ đắc lực giúp giáo viên tháo gỡ những khó khăn này.. 
 Hình 2: Đọc văn Trao duyên- Truyện Kiều( Nguyễn Du)
 Các khái niệm: tình, duyên, nghĩa, các đồ vật trong nghi lễ thề nguyền: chiếc thoa, tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, lò hương.. đều là những khái niệm khó Khi sử dụng bản đồ giáo viên vừa thuyết giảng vừa giúp học sinh có cái nhìn trực quan và cụ thể hơn về các khái niệm về nghi lễ thề nguyền, vật thề nguyền, quan niệm về gá nghĩa, về chữ duyên trong tình yêu, về bổn phận và trách nhiệm của con người trong tình yêu. Nếu dùng bản đồ tư duy, kết hợp các hình vẽ, học sinh có thể thâm nhập sau vào tác phẩm, các em được sống trong bầu không khí của những câu chuyện tình yêu với những nghi lễ trang trọng cách đây nhiều thế kỉ. Nếu giáo viên chỉ thuyết giảng đơn thuần, học sinh sẽ cảm thấy rắc rối với nhiều khái niệm, thậm chí chán nản khi mông lung với quá nhiều kiến thức.
 Ở bài đọc văn Đại cáo bình Ngô, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy trong việc giải mã các khái niệm, thuật ngữ của văn học thời Trần. Nhiều từ ngữ hình ảnh của văn học cổ điển khó hiểu, khó hình dung và tiếp nhận đối với học sinh, bởi vậy, khi sử dung BĐTD, giáo viên có thể chuyền tải tới học sinh những khái niệm này không mấy khó khăn. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh lên bảng và thực hiện những nhánh chính của BĐTD, sau đó yêu cầu các học sinh khác nhận xét, đánh giá, bổ sung, hoàn thiện. 
 Hình 3: Đọc văn: Đại cáo bì

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_ban_do_tu_duy_mot_phuong_phap_day_va_hoc_ngu_va.doc