SKKN Rèn năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh ở cấp trung học phổ thông

SKKN Rèn năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh ở cấp trung học phổ thông

 Dạy học là một quá trình cung cấp tri thức và định hướng năng lực của học sinh. Tuy nhiên, việc học môn GDCD chỉ mang tính đối phó chứ không phải học vì đam mê hoặc học để thi Đại học. Để khắc phục khó khăn này đòi hỏi giáo viên cần tìm tòi những phương pháp, kỹ thuật dạy học kích thích được đam mê, sáng tạo của học sinh.

 Đổi mới phương pháp giảng dạy, để phát huy năng lực của học sinh là một đòi hỏi của thực tiễn, với môn học GDCD cũng vậy. Mỗi phương pháp giảng dạy hay kỹ thuật dạy học đều có những ưu thế riêng, vì vậy tùy vào môn học, bài học, tiết học mà giáo viên lựa chọn phương pháp, kỹ thuật dạy học phù hợp để định hướng phát triển năng lực của học sinh phổ thông. Với quan điểm đó, trong quá trình dạy đòi hỏi giáo viên cần sử dụng phương pháp dạy học hiệu quả, những kỹ thuật dạy học phù hợp đạt được mục tiêu giảng dạy, nhất là với môn học GDCD. Trước yêu cầu của thực tiễn, bản thân tôi thấy việc “hình thành năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh” rất quan trọng, nhất là với mục đích lấy học sinh là trung tâm, học sinh được làm việc, được bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình trên cơ sở tự nhận thức vấn đề. Tuy nhiên, tài liệu nghiên cứu sâu về vấn đề này chưa nhiều, trong Tài liệu dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh đề cập đến như là nội dung quan trọng trong quá trình dạy học nhưng sử dụng như thế nào cho một bài học cụ thể thì chưa. Bản thân các đồng nghiệp mà chủ yếu là các môn khoa học xã hội cũng chưa có kinh nghiệm. Với yêu cầu của thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy cần có những đổi mới sáng tạo phù hợp, vì vậy tôi đã chọn sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ để hình thành năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông cho học sinh. Qua đó học sinh tự nhận thức, hình thành, phát huy năng lực, khả năng của bản thân qua những bài giảng cụ thể, qua những chuẩn mực, yêu cầu cụ thể của chuẩn kiến thức kĩ năng mà xã hội yêu cầu. Đồng thời sử dụng tối đa thời gian, công nghệ mới từ điện thoại thông minh, khai thác Internet, thậm chí các em còn tích cực làm việc theo nhóm, cùng với các em cần mẫn học tập chăm chỉ trên lớp, trong sách, nghe lời bài giảng của thầy cô giáo với các em ham chơi điện tử, biết về công nghệ được vận dụng tích cực.

 

doc 19 trang thuychi01 6340
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh ở cấp trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT THIỆU HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 ĐỀ TÀI: 
Rèn năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
 qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh ở 
cấp trung học phổ thông
Người thực hiện: 	Thiều Thị Hà
Tổ: Sử - Địa – GDCD
(Thuộc lĩnh vực chuyên môn GDCD)
Năm học 2016 - 2017
Mục lục
Mở đầu...Trang 2
Nội dung...Trang 4
Kết luận, kiến nghị.Trang 14
I. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
 Dạy học là một quá trình cung cấp tri thức và định hướng năng lực của học sinh. Tuy nhiên, việc học môn GDCD chỉ mang tính đối phó chứ không phải học vì đam mê hoặc học để thi Đại học. Để khắc phục khó khăn này đòi hỏi giáo viên cần tìm tòi những phương pháp, kỹ thuật dạy học kích thích được đam mê, sáng tạo của học sinh.
 Đổi mới phương pháp giảng dạy, để phát huy năng lực của học sinh là một đòi hỏi của thực tiễn, với môn học GDCD cũng vậy. Mỗi phương pháp giảng dạy hay kỹ thuật dạy học đều có những ưu thế riêng, vì vậy tùy vào môn học, bài học, tiết học mà giáo viên lựa chọn phương pháp, kỹ thuật dạy học phù hợp để định hướng phát triển năng lực của học sinh phổ thông. Với quan điểm đó, trong quá trình dạy đòi hỏi giáo viên cần sử dụng phương pháp dạy học hiệu quả, những kỹ thuật dạy học phù hợp đạt được mục tiêu giảng dạy, nhất là với môn học GDCD. Trước yêu cầu của thực tiễn, bản thân tôi thấy việc “hình thành năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh” rất quan trọng, nhất là với mục đích lấy học sinh là trung tâm, học sinh được làm việc, được bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình trên cơ sở tự nhận thức vấn đề. Tuy nhiên, tài liệu nghiên cứu sâu về vấn đề này chưa nhiều, trong Tài liệu dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh đề cập đến như là nội dung quan trọng trong quá trình dạy học nhưng sử dụng như thế nào cho một bài học cụ thể thì chưa. Bản thân các đồng nghiệp mà chủ yếu là các môn khoa học xã hội cũng chưa có kinh nghiệm. Với yêu cầu của thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy cần có những đổi mới sáng tạo phù hợp, vì vậy tôi đã chọn sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ để hình thành năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông cho học sinh. Qua đó học sinh tự nhận thức, hình thành, phát huy năng lực, khả năng của bản thân qua những bài giảng cụ thể, qua những chuẩn mực, yêu cầu cụ thể của chuẩn kiến thức kĩ năng mà xã hội yêu cầu. Đồng thời sử dụng tối đa thời gian, công nghệ mới từ điện thoại thông minh, khai thác Internet, thậm chí các em còn tích cực làm việc theo nhóm, cùng với các em cần mẫn học tập chăm chỉ trên lớp, trong sách, nghe lời bài giảng của thầy cô giáo với các em ham chơi điện tử, biết về công nghệ được vận dụng tích cực.
1.2 Mục đích nghiên cứu
 Để cuộc vận động mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học, tự sáng tạo trở thành hiện thực thì bản thân mỗi giáo viên luôn cần nỗ lực hết mình để tìm tòi, nghiên cứu sáng tạo trên cơ sở yêu cầu chung của Bộ giáo dục và đào tạo phù hợp với thực tiễn của nhà trường và tâm lí của học sinh mà mình đang trực tiếp giảng dạy. Thực tế những bài học của môn GDCD thực sự rất hấp dẫn vì gắn liền với thực tiễn cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên nếu giáo viên không sáng tạo với phương pháp học hiện đại lại gây nhàm chán và không hấp dẫn, không đem lại hiệu quả học tập như mong muốn. Xuất phát từ thực tiễn khách quan cần có những cách làm mới hơn, rèn luyện năng lực thực sự cho học sinh tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu: “Rèn luyện năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh”
1.3 Đối tượng nghiên cứu
 GDCD THPT là sự kết nối khoa học giữa các phần, giúp học sinh hình thành thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn trong cuộc sống. Mỗi bài học GDCD đều có thể áp dụng nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau để hình thành nhiều năng lực cho học sinh. Tuy nhiên, với phạm vi cho phép thì tôi chọn nội dung của lớp 11, phần 2 công dân với một số vấn đề chính trị xã hội để thực hiện và cũng áp dụng cho tất cả các lớp thuộc khối 11 mà tôi giảng dạy. Qua đó, tôi cũng đánh giá chung được năng lực của từng lớp và đánh giá riêng được cá nhân học sinh, nhóm học sinh.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
 Trên cơ sở thực tiễn tôi chọn phương pháp nghiên cứu lý thuyết như là phương pháp giả thuyết ( phương pháp đề xuất và kiểm chứng giả thuyết), phương pháp nghiên cứu thực tiễn như phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm, phương pháp thực nghiệm khoa học 
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễnTăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm giải quyết các vấn đề phức hợp. Với yêu cầu này, mỗi giáo viên cần chủ động tìm tòi, sáng tạo, tự đổi mới mình cho phù hợp với yêu cầu của giáo dục hiện đại, tránh tụt hậu, lạc hậu của chính bản thân mình. 
 Qua nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm các nước phát triển, đối chiếu với yêu cầu và điều kiện giáo dục trong nước trong giai đoạn hiện nay, các nhà khoa học giáo dục Việt Nam đã đề xuất chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực của chương trình giáo dục trung học phổ thông rất cụ thể về sản phẩm của giáo dục, hình thành được phẩm chất và năng lực chung. Dạy học môn GDCD cũng không nằm ngoài những yêu cầu đó. Môn học này, với đặc thù riêng của mình ngoài cung cấp tri thức theo chuẩn kiến thức, kỹ năng thì cần dành cho rèn luyện, hoàn thiện phẩm chất, những năng lực chung và những phẩm chất năng lực chuyên biệt cho học sinh. Bên cạnh đó, môn học này có vai trò quan trọng trực tiếp trong quá trình hình thành ý thức chính trị, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống cho học sinh. Môn học này có đặc điểm là gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống thực tiễn sinh động của gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc điểm này tạo cho môn GDCD có những lợi thế để giáo viên có thể sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm phát triển các năng lực cho học sinh, qua đó học sinh tự mình hoàn thiện thế giới quan của bản thân. Cùng với những năng lực chung, môn GDCD còn cung cấp những năng lực chuyên biệt.
 * Những phẩm chất bao gồm:
 - Yêu gia đình, yêu quê hương đất nước.
 - Nhân ái, khoan dung.
 - Trung thực, tự trọng, chí công, vô tư.
 - Tự lập, tự tin,tự chủ và có tinh thần vượt khó.
 - Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi trường tự nhiên.
 - Thực hiện nghĩa vụ đạo đức, tôn trọng, chấp hành kỉ luật, pháp luật.
 * Những năng lực chung bao gồm:
 - Năng lực tự học.
 - Năng lực giải quyết vấn đề.
 - Năng lực sáng tao.
 - Năng lực tự quản lí.
 - Năng lực giao tiếp.
 - Năng lực hợp tác.
 - Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông.
 - Năng lực sử dụng ngôn ngữ.
 - Năng lực tính toán.
 * Những năng lực chuyên biệt của môn GDCD bao gồm:
 - Tự nhận thức, điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội:
 + Nhận thức các giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa, các quy định của pháp luật và nhận ra được các yếu tố tác động đến bản thân trong cuộc sống, học tập.
 + Nhận thức được các yếu tố tác động đến bản thân, có cách ững xử phù hợp với các tình huống trong cuộc sốn, học tập.
 + Tự đánh giá, điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội.
 - Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng đất nước:
 + Đặt ra kế hoạch và nhiệm vụ phấn đấu cho mục tiêu của mình.
 + Nhận ra và tự chịu trách nhiệm trong các hoàn cảnh và công việc cụ thể.
 + Ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình; tự giác thực hiện trách nhiệm công dân với gia đình, cộng đồng, đất nước.
 - Giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội: 
 + Tự đánh giá, tự điều chỉnh những hành động chưa hợp lí của bản thân trong học tập và trong cuộc sống hằng ngày.
 + Chủ động tham gia hợp tác giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội.
 Để rèn luyện năng lực cho học sinh không phải đơn giản, thực tế việc học đang là vấn đề cần được thay đổi đối với học sinh THPT, khắc phục tiếp thu kiến thức từ thụ động sang chủ động, thay đổi giờ học mà giáo viên truyền thụ kiến thức sang tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh qua thuyết trình, đàm thoại để giải quyết vấn đề theo quan điểm của các em.
 Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 Sau nhiều năm thực hiện công cuộc đổi mới, cải cách, mở cửa, hội nhập với thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tốt, kinh tế phát triển hơn, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện. Trong xu thế ngày càng hội nhập sâu hơn vào sự phát triển chung của thế giới việc đáp ứng những yêu cầu mới của xã hôi với từng cá thể là rất quan trọng để góp phần xây dựng đất nước và làm giàu cho bản thân, gia đình. Tuy nhiên, trong những năm qua thực tế học sinh, sinh viên sau khi học nghề, đại học xong rất khó xin việc, một mặt do sự phát triển kinh tế của nước ta còn hạn chế nên chưa có nhiều việc làm cho thanh niên; mặt khác bản thân nhiều thanh niên đã học nghề, được học đại học nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của việc làm trong xã hội. Có một bộ phận thanh niên sống thụ động, chưa chủ động học hỏi, nỗ lực. Trước yêu cầu đó, giáo dục của nước ta đòi hỏi phải có những bước chuyển mới để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn ở tất cả các cấp và giáo dục trung học phổ thông cũng vậy, mà trước hết là đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển năng lực của học sinh ở tất cả các cấp học.
 Tuy nhiên, trong những năm qua, mặc dù giáo dục của chúng ta đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. Phương pháp, cách thức dạy và học còn nhiều trăn trở với cả xã hội. Trong khi mỗi cá nhân là một cá thể riêng biệt, mang cá tính, năng lực riêng, mỗi em có cách nhận thức vấn đề, kiến thức khác nhau, có em nhận thức tốt bằng ngôn ngữ nói, viết, có em nhận thức tốt bằng âm thanh, có em nhận thức tốt bằng hình ảnh. Ngoài kết quả chung của sản phẩm giáo dục cũng cần có những sản phẩm riêng biệt đối với từng học sinh ngay từ buổi đầu đi học. Một mặt là do điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng đủ đầy để chúng ta áp dụng những hình thức học mới. Hai là kinh tế xã hội còn chậm phát triển, điều kiện gia đình vùng nông thôn chưa đều ( có nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn xa, phải lam lũ, vất vả mưu sinh) cũng làm hạn chế việc đầu tư, quan tâm của nhà nước cũng như phụ huynh cho con em mình tham gia vào những hoạt động trải nghiệm hoặc phương tiện học tập hiện đại. Ba là chính bản thân giáo viên, mà cụ thể trong đó có chính bản thân tôi nhiều lúc cũng bằng lòng với cách dạy cũ, ngại đổi mới, ngại thay đổi. Chính điều này đã làm cho giờ học, nội dung bài học trở nên nặng nề, khô khan, nhàm chán, cũ kĩ, lạc hậu, kém hấp dẫn, thiếu lôi cuốn. Trong khi đó, với công nghệ hiện đại, phía ngoài cổng trường hàng loạt địa điểm cung cấp trò chơi điện tử trực tuyến dưới danh nghĩa điểm truy cập IN TER NET công cộng lại rất phong phú, đa dạng; trò chơi bắn cá ăn tiền; thậm chí có cả ghi lô, đề
 Môn học giáo dục công dân cũng giống như những môn học khác. Tuy nhiên, đó là môn học định hướng hình thành thế giới quan, phương pháp luận, với những vấn đề liên quan đến ứng xử hằng ngày của học sinh trong cuộc sống. Việc nhận thức những vấn đề này không khó, không phức tạp nhưng nhận thức và thực hiện được không đơn giản. Để việc nhận thức trở nên tự nhiên, không gượng ép và đi đến hành động phù hợp cần “sự tự nhận thức” của từng cá nhân, từng người, nhất là đối với học sinh, tuổi đang hoàn thiện nhân cách càng khó(Trong khi thực tế, nhiều người lớn tuổi cũng chưa hẳn đã nhận thức đúng và hành động đúng).Trước thực tiễn này đòi hỏi với môn học giáo dục công dân cần đổi mới tích cực để mỗi giờ học trở nên nhẹ nhàng, gần gũi, như sử dụng trò chơi “ đuổi hình bắt chữ”, ô chữ, trắc nghiệm nhanh trong củng cố bài học, kiểm tra bài cũ hoặc tiến trình dạy bài mớiThậm chí, với yêu cầu cao hơn, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho một vấn đề theo nội dung của chuẩn kiến thức kĩ năng. Như thế góp phần thúc đẩy phát triển năng lực của học sinh, giúp học sinh có hứng thú hơn với việc học, bắt buộc học sinh phải năng động tìm tòi khám phá, để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, yêu cầu của giáo dục nói chung. 
 Với nhiều năm công tác trong ngành giáo dục, tôi đã quan sát khá tỉ mỉ, một khóa học ở trường mà tôi đang giảng dạy có khoảng 425 học sinh. Trong đó có khoảng 2 đến 3 em bỏ ngang từ lớp 10 đến lớp 11 do ham chơi ở bên ngoài, không chuyên cần rèn luyện, bao gồm cả học sinh nam và nữ, khoảng 10 học sinh ham chơi điện tử thường xuyên bỏ học chính khóa còn bỏ học bồi dưỡng con số này nhiều hơn; số học sinh nam còn lại đa số đều tranh thủ để được vào quán nét chơi  Ngăn cấm là điều không thể, vì trò chơi điện tử là sản phẩm của loài người thời hiện đại, nó cũng là kết tinh của trí tuệ con người. Vậy nên, cá nhân tôi trong thực tiễn giảng dạy ở trường, trước yêu cầu của xã hội đòi hỏi phải tìm tòi, vận dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học, công nghệ dạy học, bám sát thực tiễn để giảng dạy, để giờ học cũng thú vị, lôi cuốn và làm cho học sinh thấy các bạn ấy rất quan trọng, sản phẩm học tập là nỗ lực của cá nhân các em.
 Trên cơ sở những phương tiện hiện đại phổ biến từ máy vi tính cá nhân, máy vi tính ở quán nét có sẵn mạng công cộng, mạng WIFI trong trường, điện thoại thông minh hiện đại, máy chiếu đa năngvà khả năng sử dụng những công cụ và phương tiện đó của học sinh, tôi chọn “Rèn luyện năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông qua việc sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh trong giảng dạy” như là một hình thức học tập chủ đạo, phù hợp. (Có sản phẩm của học sinh kèm theo)
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để rèn luyện năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông qua kỹ thuật giao nhiệm vụ
 Trong quá trình dạy học, không có phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học.
 Thực tiễn dạy học ở trường trung học phổ thông hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến bài giảng trên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình mà còn là hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học chỉ cho thấy rõ việc tích cực hóa “ bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hóa “ bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học tích cực khác.
 Hơn nữa, kiến thức môn GDCD rất gần gũi với đời sống thường ngày, ở trong đề tài này tôi sử dụng chủ yếu phần 2 lớp 11 Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội. Nội dung ở những bài học này rất rõ ràng, cụ thể. Vấn đề là làm thế nào để tạo ra cách học sinh tiếp cận, nhận thức và rèn luyện kỹ năng một cách tự giác và tìm thấy sự hứng thú trong quá trình học. Nên tôi đã sử dụng kỹ thuật “ Giao nhiệm vụ để rèn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông” cho học sinh, để học sinh tự chủ được làm việc, tự nhận thức vấn đề, sau đó tự trình bày, thuyết trình. Với đề tài này tôi đã sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp, chủ yếu là phương pháp thực nghiệm khoa học để nghiên cứu.
 Kỹ thuật giao nhiệm vụ là một kỹ thuật không khó, cũng giống như giao bài tập về nhà truyền thống nhưng với những yêu cầu mới của dạy học hiện đại thì đây lại là một cách học tập rất mới mẻ, hứng thú, hấp dẫn khi kết hợp với những điều kiện học tập hiện đại.
 Kỹ thuật giao nhiệm vụ được hiểu cụ thể như sau:
 - Trước tiên việc giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng. 
 - Nhiệm vụ giao giao cho cá nhân, nhóm nào?
 - Nhiệm vụ là gì? 
 - Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?
 - Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?
 - Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?
 - Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?
 - Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?
 Xác định được kỹ thuật dạy học này sử dụng với bộ môn rất hiệu quả và sử dụng phổ biến được tới nhiều đối tượng học sinh nên tôi đã áp dụng cho tất cả các lớp trong hệ thống bài giảng Chính sách dân số và việc làm, Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường, Chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học – công nghệ, văn hóa...Đây cũng là bước đầu học sinh làm quen với phương thức học E-learning, cho phép người học có thể học bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, học những vấn đề bản thân quan tâm, phù hợp với năng lực và sở thích, phù hợp với yêu cầu công việc
 Cũng như nhiều tiết giảng đổi mới phương pháp khác, giáo viên không còn là trung tâm, giữ vai trò chính hoặc cô giảng trò nghe thụ động mà là một tiết học của học sinh làm chủ, giáo viên hướng dẫn cách để học sinh bắt đầu thuyết trình cho kết quả sản phẩm của mình. Để thực hiện kỹ thuật này trở thành kỹ năng cho học sinh bắt buộc thầy cô hướng dẫn chi tiết, cụ thể và động viên, khích lệ để học sinh tự tin thực hiện. Ở một, hai tiết đầu tiên thực hiện có thể chưa đạt như mong muốn nhưng qua đó giáo viên sẽ rút kinh nghiệm để tiết sau các em thực hiện tốt hơn.
 Để thực hiện hiệu quả, giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách, tài liệu và tìm hiểu bài học qua nhiều kênh thông tin, qua thực tiễn cuộc sống. Có những vấn đề, học sinh có thể đưa ra những cách tiếp cận khác để các bạn trong lớp và cả giáo viên nhìn nhận vấn đề sinh động, lôi cuốn.
 Đã được hướng dẫn trước, học sinh tự đọc tài liệu, tự tìm hiểu thực tiễn, sử dụng phương pháp thuyết trình và trình bày kết quả bằng phần mềm công nghệ.
 Ví dụ: Bài Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường, học sinh đã được giao nhiệm vụ:
- Tìm hiểu tài nguyên thiên nhiê

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_nang_luc_su_dung_cong_nghe_thong_tin_va_truyen_thon.doc