SKKN Rèn luyện kĩ năng lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh THPT qua giờ trả bài làm văn

SKKN Rèn luyện kĩ năng lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh THPT qua giờ trả bài làm văn

 “Văn học là nhân học”, từ xưa tới nay trong việc giáo dục con người, văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc hiệu, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Mục đích chính của việc dạy học làm văn trong nhà trường THPT là rèn cho học sinh (HS) kĩ năng cảm thụ, nhận xét, đánh giá, phân tích và bình luận những áng văn hay; rèn cho học sinh khả năng tự mình đi vào “thẩm thấu” thế giới của văn chương. Từ đó, tiếp tục rèn luyện kĩ năng đặt câu dùng từ đúng, trúng, có thần, có sức gợi; kĩ năng dựng đoạn, hành văn trong sáng, mạch lạc để viết được những bài nghị luận văn học có giá trị. Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn vì thế là một mắt xích tưởng chừng đơn giản, nhỏ nhặt nhưng vô cùng thiết yếu trong việc lĩnh hội, sáng tạo văn bản của HS.

Thế nhưng, thực tế học văn và làm văn hiện nay ở một bộ phận HS cấp THPT thật đáng buồn, hiện tượng HS “dị ứng” với môn văn, không thích học văn, làm bài kiểm tra sơ sài và đối phó vẫn còn phổ biến. Hiện tượng HS không biết tìm hiểu đề để xác định trọng tâm; bố cục bài văn lủng củng, lộn xộn; đặt câu dùng từ sai, viết những câu văn “bất thành cú”; lập luận trong đoạn văn còn thiếu khoa học, phi lôgíc, thậm chí xa rời thực tế khách quan, chưa biết triển khai luận điểm, luận cứ, chưa biết cách dùng lĩ lẽ phân tích và thẩm định dẫn chứng đưa ra. vẫn còn tồn tại.

Trong khi đó, có không ít GV chưa thực sự coi trọng “giờ trả bài”. Chỉ dạy qua loa chiếu lệ với mục đích để học sinh xem điểm. Chính vì vậy học sinh không nhận thức được những lỗi sai trong bài văn để tìm biện pháp khắc phục. Vì vậy hiệu quả của giờ học không cao, chưa thực sự có ý nghĩa đối với việc rèn luyện toàn diện cho học sinh.

 

doc 22 trang thuychi01 10112
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện kĩ năng lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học sinh THPT qua giờ trả bài làm văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
 “Văn học là nhân học”, từ xưa tới nay trong việc giáo dục con người, văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc hiệu, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Mục đích chính của việc dạy học làm văn trong nhà trường THPT là rèn cho học sinh (HS) kĩ năng cảm thụ, nhận xét, đánh giá, phân tích và bình luận những áng văn hay; rèn cho học sinh khả năng tự mình đi vào “thẩm thấu” thế giới của văn chương. Từ đó, tiếp tục rèn luyện kĩ năng đặt câu dùng từ đúng, trúng, có thần, có sức gợi; kĩ năng dựng đoạn, hành văn trong sáng, mạch lạc để viết được những bài nghị luận văn học có giá trị. Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn vì thế là một mắt xích tưởng chừng đơn giản, nhỏ nhặt nhưng vô cùng thiết yếu trong việc lĩnh hội, sáng tạo văn bản của HS. 
Thế nhưng, thực tế học văn và làm văn hiện nay ở một bộ phận HS cấp THPT thật đáng buồn, hiện tượng HS “dị ứng” với môn văn, không thích học văn, làm bài kiểm tra sơ sài và đối phó vẫn còn phổ biến. Hiện tượng HS không biết tìm hiểu đề để xác định trọng tâm; bố cục bài văn lủng củng, lộn xộn; đặt câu dùng từ sai, viết những câu văn “bất thành cú”; lập luận trong đoạn văn còn thiếu khoa học, phi lôgíc, thậm chí xa rời thực tế khách quan, chưa biết triển khai luận điểm, luận cứ, chưa biết cách dùng lĩ lẽ phân tích và thẩm định dẫn chứng đưa ra... vẫn còn tồn tại.
Trong khi đó, có không ít GV chưa thực sự coi trọng “giờ trả bài”. Chỉ dạy qua loa chiếu lệ với mục đích để học sinh xem điểm. Chính vì vậy học sinh không nhận thức được những lỗi sai trong bài văn để tìm biện pháp khắc phục. Vì vậy hiệu quả của giờ học không cao, chưa thực sự có ý nghĩa đối với việc rèn luyện toàn diện cho học sinh. 
Làm thế nào để HS phổ thông có những bài văn nghị luận với những đoạn văn trôi chảy, logíc, mạch lạc? Đó là câu hỏi của rất nhiều GV đang giảng dạy bộ môn văn đang đặt ra và muốn tìm hướng giải quyết. 
Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài: Rèn luyện kĩ năng lập luận trong đoạn văn nghị luận cho HS THPT qua giờ trả bài làm văn. 
2. Mục đích nghiên cứu
 	Đề tài Rèn luyện kĩ năng lập luận trong đoạn văn nghị luận cho HS THPT qua giờ trả bài làm văn nhằm giúp HS THPT rèn luyện kĩ năng xây dựng đoạn văn hoàn hảo về nội dung và hình thức, đặc biệt là cách lập luận trong văn nghị luận; giúp HS tạo dựng được những đoạn văn đúng và hay. Từ đó, nâng cao kĩ năng lập luận trong trình bày, diễn đạt cho HS trong quá trình làm văn nghị luận nói riêng và sử dụng ngôn ngữ nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu 
HS khối 11 (11A6, 11A7) và HS khối 12 (12C5, 12C7) của trường THPT Như Thanh năm học 2015-2016.
4. Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp lập luận
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp dạy học theo trạm 
- Phương pháp GRAPH
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Lập luận trong đoạn văn nghị luận
- Khái niệm lập luận
Lập luận là quá trình đi từ luận cứ đến kết luận. Lập luận là quá trình tổ chức lí lẽ, dẫn chứng để nêu ra luận điểm, là quá trình đào sâu, mở rộng luận điểm chính.
- Cấu tạo của lập luận
+ Luận điểm
Luận điểm là ý kiến xác định của người viết về vấn đề được đặt ra, một đoạn văn có thể trình bày một luận điểm hoặc nhiều đoạn văn cùng nhau soi sáng một luận điểm. Muốn chứng minh và làm sáng tỏ luận điểm thì phải đưa ra hệ thống luận cứ chính xác cùng với các luận chứng cụ thể, đúng đắn để phân tích và chứng minh cho luận điểm ấy.
Luận điểm là một mắt xích quan trọng trong quá trình lập luận, vì vậy chỉ cần một luận điểm không ăn khớp là cả chuỗi lập luận sẽ bị lỏng lẻo, cả bài văn sẽ mất tính liên kết.
+ Luận cứ 
Luận cứ của lập luận là căn cứ để rút ra kết luận. Luận cứ bao gồm hai loại: Luận cứ thực tế và luận cứ lí lẽ. Luận cứ thực tế là những dẫn chứng được rút ra từ thức tiễn của đời sống xã hội hoặc trong các tác phẩm văn học. Luận cứ lí lẽ bao gồm các nguyên lí, chân lí, các ý kiến đã được công nhận được sử dụng nhằm mục đích minh hoạ cho luận điểm. Trong nội bộ luận cứ, lí lẽ và dẫn chứng có quan hệ mật thiết với nhau, qui định và soi sáng lẫn nhau để tạo thành một chỉnh thể của luận cứ. Lí lẽ làm cho dẫn chứng có khả năng thuyết minh cho luận điểm, còn dẫn chứng làm cho lí lẽ có nội dung và có sức thuyết phục.
Nói chung các luận cứ phải có hiệu lực lập luận để phục vụ cho kết luận của đoạn văn, tiến tới phục vụ cho kết luận của văn bản.
+ Kết luận
Kết luận là cái đích mà lập luận hướng tới, kết luận có thể là một phán đoán khái quát nhằm khẳng định hay phủ định một vấn đề nào đó. Kết luận phải tương hợp với các luận cứ được nêu ra, kết luận phải là hệ quả tất yếu được suy ra từ các luận cứ, được trình bày phù hợp với lôgíc cuả lập luận, phù hợp với lôgíc của đời sống. Kết luận cũng phải được lựa chọn cho phù hợp với mục đích của lập luận, phù hợp với mục đích thuyết phục của người nói, người viết.
Một kết luận có giá trị là kết luận có nội dung đảm bảo tính chân thực, sáng rõ, mạch lạc, thể hiện đầy đủ quan niệm tư tưởng sâu sắc của chủ thể lập luận. Kết luận có thể được trình bày một cách tường minh, có thể do người đọc tự rút ra từ các luận cứ và nội dung ngữ cảnh (kết luận hàm ẩn).
- Phương pháp lập luận
Phương pháp lập luận là sự phối hợp, tổ chức liên kết các luận cứ theo những cách thức suy luận nào đấy để dẫn đến kết luận và làm nổi bật kết luận. 
1.2. Những lí luận cơ bản về đoạn văn
- Đoạn văn là sự thống nhất về mặt nội dung và hình thức:
+ Về mặt nội dung: Đoạn văn có thể hoàn chỉnh hoặc không hoàn chỉnh, sự không hoàn chỉnh này nằm trong ý đồ của người viết chứ không phải là được tạo ra một cách tuỳ tiện hay vô thức. Khi đoạn văn hoàn chỉnh về nội dung được gọi là đoạn ý (đoạn tự nghĩa), khi đoạn văn không hoàn chỉnh về nội dung gọi là đoạn lời, đoạn diễn đạt (đoạn hợp nghĩa)
+ Về mặt hình thức: Đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh thể hiện qua dấu hiệu, mở đầu đoạn là sau dấu chấm, viết hoa và lùi vào đầu dòng, cuối đoạn là một dấu chấm kết thúc.
- GS-TS Lê A nêu khái niệm đoạn văn: “Đoạn văn là một bộ phận của văn bản gồm một chuỗi câu không hạn định, được xây dựng theo một cấu trúc và theo một nội dung thống nhất (đầy đủ hoặc không đầy đủ) được tách rõ ràng về mặt hình thức. Ở dạng nói, nó có những kiểu ngữ điệu nhất định và kết thúc bằng chỗ ngắt hơi dài. Ở dạng viết, nó bắt đầu bằng dấu mở đoạn (lùi đầu dòng và viết hoa) và kết thúc bằng dấu hiệu dứt đoạn (dấu ngắt phát ngôn và xuống dòng)”.
* Đoạn văn mắc lỗi về lập luận là đoạn văn mà luận điểm, luận cứ, luận chứng không logic, không ăn nhập với kết luận đưa ra, không có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.
1.3. Lí luận về dạy học giờ trả bài trong nhà trường THPT
Giờ trả bài mang tính thực hành, là giờ học luyện tập củng cố và hình thành kĩ năng, kĩ xảo tạo lập văn bản cho HS. Giờ trả bài nếu được tổ chức giảng dạy tốt sẽ tạo được nhiều hứng thú học tập cho các em bởi đó là giờ học mang tính khái quát tổng hợp cao. Kiến thức của giờ trả bài mang tính tích hợp của hai bộ môn tiếng Việt và Văn học được giảng dạy trong nhà trường. Giờ trả bài nhằm củng cố, nâng cao các kĩ năng làm văn. 
Giờ trả bài vừa nâng cao năng lực tư duy, vừa nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ, bồi dưỡng năng lực diễn đạt trong làm văn cho HS. Giờ trả bài còn rèn luyện nhiều kĩ năng khác trong đời sống: Năng lực nhận biết cái đúng, cái sai, cái hay, cái đẹp; năng lực đánh giá, phê phán, rút kinh nghiệm Giờ trả bài còn mang ý nghĩa giáo dục về nhiều mặt: Tư tưởng, đạo lí, tình cảm, thái độ để từ đó các em HS lựa chọn thái độ và tình cảm sống đúng đắn. 
Trên đây là những cơ sở lí luận cơ bản mà đề tài lấy làm căn cứ để tiến hành nghiên cứu.
2. Cơ sở thực tiễn
	Trường THPT Như Thanh là ngôi trường có bề dày lịch sử và thành tích, với 50 năm xây dựng và trưởng thành trường luôn là cánh chim đầu đàn trong phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” của giáo dục huyện nhà, những năm gần đây nhà trường nỗ lực vươn lên và đã có nhiều đóng góp cho giáo dục Tỉnh Thanh Hoá.
- Về phía GV: GV trong trường phần đa là những người có trình độ năng lực chuyên môn vững vàng, ham học hỏi và cầu thị. Luôn sẵn sàng tiếp nhận những cái mới trong phương pháp dạy học tích cực để tạo hiệu quả cao trong giảng dạy. Tổ Ngữ văn có 10 GV đều nhiệt tình và tâm huyết, tất cả đều đang ở giai đoạn “độ tuổi vàng” của tuổi nghề với trình độ và kinh nghiệm chín muồi. Tuy nhiên, ở một số GV vẫn còn tình trạng chưa thực sự coi trọng giờ trả bài kiểm tra cho HS.
- Về phía HS: HS của trường đều rất chăm ngoan, có ý thức học tập và rèn luyện tốt. Tuy nhiên, kĩ năng viết đoạn văn đúng và hay ở một số em còn hạn chế. Đặc biệt là cách lập luận trong văn nghị luận của các em còn non yếu, điều này tạo nên hệ luỵ trong cách hành văn của HS.
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên, cá nhân tôi sau nhiều trăn trở và tìm tòi mạnh dạn đề xuất những biện pháp thực nghiệm sau nhằm rèn luyện kĩ năng lập luận trong đoạn văn nghị luận cho HS thông qua giờ trả bài làm văn. Từ đó góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn Ngữ Văn cho HS THPT tỉnh nhà.
3. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
3.1 Biện pháp 1 : Phát hiện và sửa lỗi 
	Trong giờ trả bài, GV- HS lần lượt thực hiện các hoạt động dạy học : 
TRẢ BÀI LÀM VĂN
-Sửa chữa lỗi của bài viết
-Nhận xét và đánh giá bài viết của HS
-Thảo luận xây dựng đáp án
-Nêu lại đề
-Phân tích tìm hiểu đề
	Ở biện pháp này, sau khi GV- HS thực hiện xong 3 hoạt động (nêu lại đề, phân tích đề; thảo luận xây dựng đáp án; nhận xét đánh giá bài viết của HS) chúng tôi tập trung vào hoạt động 4 (Sửa chữa lỗi của bài viết), GV điều hành hoạt động này theo 3 bước sau: 
Bước 1 :
- GV giao nhiệm vụ cho HS tự phát hiện và sửa lỗi trong bài làm của mình : “Sau khi đọc kĩ lại bài làm anh (chị) hãy phát hiện đoạn văn mắc lỗi lập luận trong bài làm của mình.” ( trong quá trình chấm bài GV đã khoanh vùng những đoạn văn mắc lỗi lập luận của HS, ví dụ HS A- đoạn văn sai: HS B – đoạn văn sai.....) 
- HS trình bày; GV nhận xét và đánh giá.
	(Bước này sẽ có chút khó khăn khi mới thực nghiệm, bởi một số HS có trình độ kiến thức và kĩ năng chưa tốt, và một số cá nhân HS khi nhìn nhận về cái sai, thiếu sót của bản thân vẫn còn bảo thủ, cố chấp. Nhưng nếu GV rèn luyện được cho HS tính khách quan, khoa học khi nhìn nhận lại bài làm của chính mình sẽ rất tốt cho các em sau này, đặc biệt khi nó trở thành tính cách trong cuộc sống...)
Bước 2 :
- GV cho HS đổi bài để bạn phát hiện đoạn văn mắc lỗi cho nhau, đây là bước kĩ năng làm việc nhóm được phát huy. Sau khi HS phát hiện lỗi trong bài của nhau (HS A phát hiện đoạn văn mắc lỗi trong bài của HS B, HS C phát hiện đoạn văn mắc lỗi trong bài của HS D ...)
- Tập hợp nhóm thảo luận vấn đề (nhóm chia theo bàn, theo danh sách lớp, theo tổ hoặc theo năng lực của HS.....tuỳ từng bài viết và cấp độ bài viết) 
- HS trình bày. GV nhận xét và đánh giá.
Bước 3 : 
- GV chọn và đưa ra 2 sản phẩm tiêu biểu sau quá trình làm việc của HS (một đoạn văn mắc lỗi trong bài làm của HS đã được phát hiện và sửa lỗi đúng ; một đoạn văn mắc lỗi trong bài làm của HS đã được phát hiện và sửa lỗi chưa chính xác), cho HS trong lớp phát biểu ý kiến đánh giá.
- GV nhận xét và kết luận.
* Ví dụ minh hoạ sau đây là 2 sản phẩm trong tiết trả bài ở lớp 12C5 mà tôi thực nghiệm :
Sản phẩm 1 : HS phát hiện và sửa lỗi đúng
 Đoạn văn 1: “(1) Đoạn văn tả cảnh hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm là một chi tiết vô cùng cảm động. (2) Trong phút chốc thiêng liêng ấy, con người ta bổng thấy mình trưởng thành và khôn lớn hơn. (3) Một người cạn nghĩ như Việt, vào giờ khắc này mới thấy “thương chị lạ”, mới thấy rõ lòng mình và cảm thấy mối thù thằng Mĩ có hình, có khối đang đè nặng trên vai. (4) Đây là chi tiết chứng tỏ chị Chiến là người có tấm lòng nhân hậu, chan chứa yêu thương.”
 (đoạn văn trong bài làm của HS Lê Thị Thuỳ 12C5)
HS phân tích lỗi: Người viết mắc lỗi sử dụng một số từ ngữ, có đưa ra kết luận ở câu 4 nhưng kết luận không phù hợp với nội dung các luận cứ trong đoạn. Vì vậy, lập luận còn thiếu kết luận cần phải được bổ sung kết luận phù hợp để nội dung đoạn văn đúng và hay hơn.
Đề xuất cách sửa: Thay thế một số từ ngữ và viết thêm kết luận cho phù hợp với nội dung các luận cứ của đoạn văn
Đoạn văn trên được sửa như sau: “(1) Đoạn văn tả cảnh hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm là một chi tiết vô cùng cảm động. (2) Trong giờ khắc thiêng liêng ấy, con người ta bỗng thấy mình trưởng thành và khôn lớn hơn. (3) Một người hồn nhiên, vô tư như Việt, vào giờ khắc này mới thấy “thương chị lạ”, mới thấy rõ lòng mình và cảm thấy mối thù thằng Mĩ có hình, có khối đang đè nặng trên vai. (4) Đây là chi tiết chất chứa bao ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa là yếu tố tâm linh, vừa trĩu nặng căm thù, vừa chan chứa yêu thương.”
Sản phẩm 2 : HS phát hiện và sửa lỗi chưa chính xác
 Đoạn văn 2: “(1) Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình thực sự đã có một dòng sông của truyền thống gia đình. (2) Đó chính là Chiến và Việt, cả hai đều có một mối thù sâu nặng đối với giặc Mỹ và có lòng yêu nước thuỷ chung son sắc. (3) Cả hai đều quyết tâm ra trận chiến đấu để đền nợ nước, trả thù nhà.” (đoạn văn trong bài làm của Lê Văn Sơn lớp 12C5)
HS phân tích lỗi: Đoạn văn gồm 3 câu, luận điểm đưa ra là dòng sông truyền thống gia đình nhưng người viết khẳng định dòng sông đó là hai chị em Chiến và Việt là chưa chính xác. Đó là một truyền thống gia đình của thời ông bà, cha mẹ, chú Năm.
HS sửa lỗi : “(1) Trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”, thực sự đã có một dòng sông của truyền thống gia đình. (2) Đó là dòng sông chảy từ thế hệ này sang thế hệ khác, bắt nguốn từ thế hệ ông bà, ba má và chú Năm.(3) Cả ba má Việt đều có một mối thù sâu nặng đối với giặc Mỹ và có lòng yêu nước thuỷ chung son sắc.”
3.2 Biện pháp 2: Phương pháp dạy học theo trạm 
3.2.1 Khái niệm 
- Trạm, theo nghĩa tiếng Việt?
Là một địa điểm không gian cố định, tại đó con người giải quyết một vấn đề chuyên biệt nào đó. 
- Trong học tập, trạm được hiểu?
Là một địa điểm học tập (vị trí học tập) của nhóm HS trong hệ thống các địa điểm không gian trong lớp học. Tại địa điểm này, HS có thể tự tổ chức các hoạt động học tập (làm thí nghiệm, giải bài tập, hay giải quyết một vấn đề nào đó trong học tập).
- Dạy học theo trạm là gì?
GV có thể tổ chức cho HS hoạt động học tập tự lực tại các vị trí không gian lớp học để giải quyết các vấn đề trong học tập. Hệ thống các trạm thường được thiết kế, bố trí theo hình thức các vòng tròn khép kín trong không gian lớp học.
Hoạt động của HS tại các trạm là hoàn toàn tự do, dưới sự định hướng của GV, HS phải tự xoay sở để vượt qua các trạm. Do đó, dạy học theo trạm tập trung vào "tự chủ và tự học", rèn luyện thói quen tự lực giải quyết vấn đề cho HS.
=> Dạy học theo trạm là một phương pháp tổ chức dạy học dựa trên hình thức làm việc tại các trạm.
*Các bước tổ chức học tập theo trạm nhằm phát huy vai trò chủ thể tích cực, sáng tạo của HS trong việc rèn kĩ năng sửa lỗi lập luận trong đoạn văn 
3.2.2. Áp dụng phương pháp dạy học theo trạm vào giờ trả bài làm văn
	Thực hiện theo các bước sau :
Bước 1: Chia nhóm, chuẩn bị đồ dùng học tập
Chia nhóm, chuẩn bị dụng cụ. Có thể cho HS tự chia nhóm ngay tại lớp, hoặc có thể cho HS chia nhóm trước và phân công chuẩn bị dụng cụ. Cần chia nhóm ngay từ đầu để việc học được thuận lợi.
- GV chia lớp thành nhóm hoặc HS tự chọn vào nhóm ở các trạm tuỳ theo sự lựa chọn vào năng lực của HS.
- Đồ dùng học tập: bút, giấy, bút dạ, bút nhớ, giấy A1.
Bước 2: Thống nhất nội qui và nội dung học tập theo trạm.
(GV giới thiệu nội dung học tập tại các trạm học tập, số lượng các trạm, các trạm bắt buộc và tự chọn. Thông báo quy tắc cho điểm mỗi cá nhân, giới thiệu phiếu học tập và cách làm việc trên các phiếu học tập, yêu cầu trợ giúp, Tất cả các nội quy đưa ra đảm bảo cho việc học tập tại các trạm được diễn ra một cách tự lực, chủ động, hạn chế mất trật tự, tối ưu hóa thời gian làm việc,..)
- GV phổ biến nội qui học tập: HS trong mỗi trạm làm việc độc lập hoặc nhóm tuỳ vào sự lựa chọn của các em, nhưng phải nghiêm túc và cầu thị.
- GV giới thiệu nội dung học tập tại các trạm như sau: (Các trạm được bố trí tương ứng với đơn vị kiến thức từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp).
+ Trạm 1: Phát hiện và sửa lỗi về từ 
+ Trạm 2: Phát hiện và sửa lỗi về ngữ pháp 
+ Trạm 3: Phát hiện và sửa lỗi về lỗi tách đoạn 
+ Trạm 4: Phát hiện và sửa lỗi liên quan đến việc nêu luận điểm
+ Trạm 5: phát hiện và sửa lỗi liên quan đến việc nêu luận cứ
+ Trạm 6: Phát hiện và sửa lỗi kết luận
Sử dụng vòng tròn học tập đóng
- Định trước chuỗi các trạm học tập. 
- Thứ tự hoạt động tại các trạm đã được sắp xếp cố định 
- Luôn bắt đầu từ một trạm và kết thúc tại một trạm định trước. 
- GV phát phiếu học tập (phiếu học tập ghi các đoạn văn mắc lỗi trong bài làm của HS mà trong quá trình chấm GV đã chọn ra, mỗi trạm chịu trách nhiệm một đoạn văn mắc lỗi), qui tắc cho điểm (thang điểm 10), yêu cầu trợ giúp (nếu HS trong trạm không tìm được cách giải quyết vấn đề thuộc nội dung học tập trong trạm của mình).
* Thành lập trạm giám sát - dịch vụ: 
(Trạm này được đặt tại một ví trí trung tâm của vòng tròn học tập nhằm cung cấp thông tin cho các trạm khác, cung cấp đáp án cho các trạm để so sánh kết quả sau khi HS hoàn thành nhiệm vụ. Trạm giám sát thường xuyên trao đổi các thông tin phản hồi cho các trạm khác một cách trực tiếp, liên tục.)
- Trạm giám sát - dịch vụ: GV chuẩn bị sẵn đáp án và những đơn vị kiến thức liên quan để cung cấp thông tin cho các trạm khi HS có yêu cầu trợ giúp. 
Ví dụ : 
+ Trạm 1: Kiến thức về “từ và cách dùng từ” (cách dùng từ trong giao tiếp, trong hành văn, trong văn nghị luậnđúng và hay). Lỗi về dùng từ mà HS thường mắc phải: Đoạn văn thường có những lỗi về dùng từ như: sai chính tả, dùng từ chưa chuẩn, chưa diễn đạt đúng nội dung của vấn đề, cần phải sửa lại những từ dùng sai cho đúng.
+ Trạm 2: Kiến thức về “câu và cách đặt câu” (cách đặt câu trong giao tiếp, trong hành văn, trong văn nghị luậnđúng và hay). Lỗi về ngữ pháp mà HS thường mắc phải: Đoạn văn thường mắc lỗi về ngữ pháp, câu văn không đủ thành phần, thiếu chủ ngữ hoặc thiếu thành phần câu ...dẫn đến nội dung đoạn văn tối nghĩa và khó hiểu.
+ Trạm 3: Kiến thức về “đoạn văn và cách tách đoạn văn”. Lỗi dung lượng doạn văn mà HS thường mắc phải: Đoạn có dung lượng quá lớn: Học sinh rất hay mắc loại lỗi này vì thường là các em không có ý thức viết đoạn văn và triển khai luận điểm, luận cứ thành từng đoạn văn ngắn. Mặt khác, rất nhiều em học sinh còn nghĩ trong bài văn chỉ cần có ba lần xuống dòng, đó là sau mở bài, thân bài và kết luận. Đoạn có dung lượng nhỏ: ngắt đoạn chưa hợp lí, chưa đảm bảo yêu cầu về dung lượng của đoạn văn.
+ Trạm 4: Kiến thức về “đoạn văn, luận điểm trong đoạn văn và phương pháp lập luận”. Những lỗi lập luận về luận điểm mà HS thường mắc phải:
* Luận điểm trùng lặp, không rõ ràng: Là hiện tượng thường gặp, các em hay bị lặp lại luận điểm hoặc luận điểm không rõ ràng.
* Luận điểm không phù hợp với bản chất của vấn đề cần giải quyết.
+ Trạm 5: Kiến thức về “đoạn văn, luận cứ trong đoạn văn và phương pháp lập luận”. Những lỗi lập luận về luận cứ mà HS thường mắc phải:
* Luận cứ thiếu chính xác, thiếu chân thực: Người viết thường đưa ra những suy diễn không hợp lí, các lí lẽ và dẫn chứng đưa ra không đúng với quy luật lôgíc và quy luật khách quan của cuộc sống nên không đủ sức thuyết phục để hướng tới kết luận. Nhìn chung suy diễn trong đoạn văn là thiếu căn cứ.
* Luận cứ không được phát triển đầy đủ: Trong đoạn văn, các luận cứ đưa ra không được phát triển đầy đủ, một số nội dung nào đó đã thiếu hụt. Các luận cứ đưa ra không đủ sức chứng minh cho kết luận mà phải bổ sung thêm những luận cứ phù hợp. Luận cứ không được phát triển đầy đủ sẽ làm cho nội dung đoạn văn không đủ ý và không có sức thuyết phục.
+ Trạm 6: kiến thức về “đoạn văn, cách kết luận trong đoạn văn và phương pháp lập luận”. Lỗi lập luận trong kết luận của đoạn văn HS thường mắc phải:
Lập luận có kết luận không

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ki_nang_lap_luan_trong_doan_van_nghi_luan_cho.doc