SKKN Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến đồng nghiệp

SKKN Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến đồng nghiệp

Ngay từ thời cổ đại các nhà sử học đã khẳng định: Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống, là bó đuốc soi đường đi đến tương lai. Do đó, cùng với tất cả các môn học khác việc dạy học Lịch Sử có ý nghĩa thực sự quan trọng, nó có nhiều ưu thế trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, tri thức, thẩm mĩ với thế hệ trẻ. Vì vậy đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống 1.

Tuy nhiên, tình trạng học Sử của học sinh hiện nay là một điều đáng báo động. Học sinh không thích học Sử, vô cảm trước Lịch Sử, hiểu Lịch Sử lơ mơ thậm chí có nhiều em còn “mù Lịch Sử” và đã có nhiều câu chuyện bi hài cười ra nước mắt về việc học Sử, hiểu biết Lịch Sử của học sinh. Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều lí do khác nhau, theo tôi tựu chung lại có mấy lý do sau: Thứ nhất, Sách giáo khoa Lịch sử mang tính hàn lâm, chưa hấp dẫn, kiến thức còn dàn trải, nặng nề.Thứ hai, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn đến học sinh chỉ tập trung học những môn thi vào các trường đại học sau này ra kiếm được nhiều tiền.Thứ ba, lối dạy Lịch Sử vẫn chủ yếu thầy nói trò nghe làm cho chất lượng bộ môn không cao.Thứ tư, vấn đề thi cử đánh giá như hiện nay cũng ảnh hưởng tới chất lượng dạy học Lịch Sử.Để giờ học Lịch Sử trở nên hấp dẫn với học sinh, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em, đòi hỏi giáo viên Lịch Sử phải biết kết hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau trong đó biện pháp sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình trong dạy học Lịch Sử là điều rất cần thiết. Sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình trong qúa trình dạy học giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn bản chất sự kiện Lịch Sử, là phương tiện để hình thành khái niệm rút ra quy luật, bài học Lịch Sử, thúc đẩy tư duy nhận thức, kích thích tính tò mò, óc tìm tòi, phân tích, so sánh, khái quát hóa của học sinh làm cho giờ học thêm sinh động và hấp dẫn.

 

doc 21 trang thuychi01 16644
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến đồng nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngay từ thời cổ đại các nhà sử học đã khẳng định: Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống, là bó đuốc soi đường đi đến tương lai. Do đó, cùng với tất cả các môn học khác việc dạy học Lịch Sử có ý nghĩa thực sự quan trọng, nó có nhiều ưu thế trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, tri thức, thẩm mĩ với thế hệ trẻ. Vì vậy đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống [1].
Tuy nhiên, tình trạng học Sử của học sinh hiện nay là một điều đáng báo động. Học sinh không thích học Sử, vô cảm trước Lịch Sử, hiểu Lịch Sử lơ mơ thậm chí có nhiều em còn “mù Lịch Sử” và đã có nhiều câu chuyện bi hài cười ra nước mắt về việc học Sử, hiểu biết Lịch Sử của học sinh. Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều lí do khác nhau, theo tôi tựu chung lại có mấy lý do sau: Thứ nhất, Sách giáo khoa Lịch sử mang tính hàn lâm, chưa hấp dẫn, kiến thức còn dàn trải, nặng nề.Thứ hai, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn đến học sinh chỉ tập trung học những môn thi vào các trường đại học sau này ra kiếm được nhiều tiền.Thứ ba, lối dạy Lịch Sử vẫn chủ yếu thầy nói trò nghe làm cho chất lượng bộ môn không cao.Thứ tư, vấn đề thi cử đánh giá như hiện nay cũng ảnh hưởng tới chất lượng dạy học Lịch Sử....Để giờ học Lịch Sử trở nên hấp dẫn với học sinh, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em, đòi hỏi giáo viên Lịch Sử phải biết kết hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau trong đó biện pháp sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình trong dạy học Lịch Sử là điều rất cần thiết. Sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình trong qúa trình dạy học giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn bản chất sự kiện Lịch Sử, là phương tiện để hình thành khái niệm rút ra quy luật, bài học Lịch Sử, thúc đẩy tư duy nhận thức, kích thích tính tò mò, óc tìm tòi, phân tích, so sánh, khái quát hóa của học sinh làm cho giờ học thêm sinh động và hấp dẫn.
Tuy nhiên, trong thực tế dạy và học ở các trường Trung học phổ thông trong tỉnh nói chung và trường Trung học phổ thông Đặng Thai Mai nói riêng, việc sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình còn nhiều hạn chế, chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Ghi chú: 
- Ở mục 1: Đoạn “ Ngay từ thời vào cuộc sống” tác giả tham khảo từ TLTK số 1.
Vì vậy trong quá trình tham gia giảng dạy trên lớp, bản thân tôi đã tìm tòi, thực hiện một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả những kênh hình, sử dụng hệ thống câu hỏi và đã thu được kết quả rất khả quan. Do khuôn khổ có hạn nên trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đề cập đến việc sử dụng hệ thống câu hỏi và khai thác kênh hình khi dạy bài Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 – 1945 lớp 11 chương trình chuẩn. Đây là một bài dài, nhiều vấn đề, sự kiện lịch sử. Trong quá trình giảng dạy, nếu giáo viên không đổi mới phương pháp dạy học, chắt lọc kiến thức sẽ dẫn đến giờ học nặng nề, khiến các em mệt mỏi ngại học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích mà đề tài này hướng đến chính là để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử qua việc sử dụng câu hỏi và khai thác kênh hình. Làm tăng hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em yêu thích môn học, khơi dậy khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh. Từ đó giáo dục cho các em lòng tự hào về lịch sử dân tộc và nhân loại tiến bộ. Đồng thời, tôi cũng mong muốn được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp những kinh nghiệm trong thực tế giảng dạy của mình nhằm nâng cao hiệu quả giờ học Lịch sử, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục đào tạo đặt ra cho bộ môn của chúng ta.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 11 trường Trung học phổ thông Đặng Thai Mai ứng dụng cụ thể qua bài: Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 - 1945 lớp 11 chương trình chuẩn.
4. Phương pháp nghiên cứu: 
Để đạt được kết quả nghiên cứu tôi dựa trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học mà ngành giáo dục đang tiến hành và dựa trên thực tế giảng dạy. Tôi đã vận dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến đồng nghiệp ...
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong bối cảnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã xác định vấn đề giáo dục là quốc sách. Đầu tư cho giáo dục chính là sự đầu tư cho tương lai. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước, nền giáo dục nước ta đang từng bước đổi mới cả về nội dung và phương pháp. Về phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã được công nhận là phương pháp tối ưu, trong đó việc sử dụng câu hỏi và khai thác kênh hình vào giảng dạy là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao chât lượng giáo dục [1]. Nhưng vấn đề là dạy như thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh là một việc khó đòi hỏi người giáo viên phải luôn sáng tạo, tìm tòi đầu tư, chuẩn bị bài giảng công phu. Do đó, không ít giáo viên còn ngại đổi mới mà vẫn dạy theo phương pháp truyền thống: dạy chay nặng thuyết trình, thầy đọc trò ghi, hay biến các bài học lịch sử thành bài chính trị khô khan, cứng nhắc làm suy giảm chất lượng môn học. Nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc áp dụng các dạng câu hỏi và khai thác kênh hình vào giảng dạy. Ghi chú: 
- Ở mục II.1: Đoạn “Trong bối cảnh giáo dục” tác giả tham khảo từ TLTK số 1.
Học sinh thì không hứng thú trong học tập, không hiểu được bản chất của sự kiện lịch sử, không biết tổng hợp, hệ thống các vấn đề kiến thức cơ bản, lúng túng trong cách trình bày, không biết kết nối các sự kiện, nhân vật thành nhóm kiến thức để tìm ra quy luật và bài học lịch sử. Mặt khác hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng giáo án điện tử đang được nhiều nhà giáo dục quan tâm. Đối với bộ môn lịch sử việc sử dụng những đoạn phim tư liệu, nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ học rất dễ dàng gây hứng thú học tập cho học sinh. Tuy nhiên việc sử dụng công nghệ thông tin chưa được phổ biến do nhiều yếu tố như: kĩ năng vi tính của giáo viên chưa tốt, thiết bị, đồ dùng dạy học còn thiếu Cho nên người giáo viên phải chủ động tìm ra phương pháp thích hợp với từng bài học, với đặc điểm tình hình của trường học. 
2. Thực trạng của vấn đề
	Nhìn chung vấn đề học tập của các em học sinh ở trường Trung học phổ thông về môn Sử còn rất hạn chế. Một thực trạng phổ biến nhất đối với các em học sinh là việc học bài cũ 1 cách thụ động, học vẹt, khi ngồi học trên lớp với một tinh thần gò bó, o ép cho nên dẫn đến tình trạng các em không nắm được kiến thức lịch sử, khi kiểm tra bài cũ thì đa số các em không nhớ hay quên mất 1 từ đầu câu thì sẽ quên hết nội dung kiến thức đã học. Một thực trạng nữa là môn Lịch sử không những không được học sinh yêu thích mà còn có học sinh ngại học, sợ học Sử, các em chỉ học đối phó lấy điểm trung bình, vì thi mà phải học, là một môn học nặng nề vì phải nhớ nhiều, học thuộc. Điều này làm cho những người có trách nhiệm trong nghành giáo dục - trực tiếp là giáo viên phải “dở khóc dở cười” khi đọc bài thi tốt nghiệp, cao đẳng, đại học của học sinh do các em hiểu sai Lịch sử. Vậy làm thế nào để các em học sinh không thụ động, có say mê hứng thú học, nắm được kiến thức lịch sử đòi hỏi người giáo viên phải tự sáng tạo, tự tìm tòi đầu tư cho bài dạy, tìm ra phương pháp thích hợp với từng bài học. Nhưng trên thực tế không ít giáo viên còn đầu tư vào bài giảng chỉ mang tính hình thức, phương pháp giảng dạy thì cũ kĩ  Bên cạnh đó sự đầu tư cho đồ dùng dạy học phục vụ cho giảng dạy còn thiếu thốn về tranh ảnh, máy móc 
Qua hơn 17 năm giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường THPT tôi nhận thấy với mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học đang được tiến hành đồng bộ và thu được nhiều thành tựu đáng kể. Trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh, vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra được thực hiện thông qua hỏi đáp với những câu hỏi phát triển tư duy học sinh trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 45 phút. Qua đó tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi mang tính chất trình bày (hiểu và biết), còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức(vận dụng và vận dụng cao) thì các em còn rất lúng túng khi trả lời. 
3. Giải pháp thực hiện.
3.1. Sử dụng hệ thống câu hỏi khi dạy bài “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 – 1945”.
3.1.1. Vị trí ý nghĩa của việc sử dụng câu hỏi 
Câu hỏi có ý nghĩa rất to lớn đối với quá trình phát triển tư duy nói chung nhất là tư duy độc lập của học sinh. Mặt khác câu hỏi còn ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình nhận thức của học sinh. thông qua các thao tác của tư duy như đối chiếu, so sánh, phân tíchvạch ra những dấu hiệu bản chất. những câu hỏi “cái gì”, “Tại sao”, “Như thế nào”  có tác dụng kích thích óc tìm tòi sáng tạo của học sinh. 
Câu hỏi còn giúp rèn luyện ý thức học tập, lòng ham mê hiểu biết, say mê sáng tạo, nêu cao tính tích cực chủ động trong nghiên cứu, học tập từ đó hình thành niềm tin ở các em, khi đó kiến thức được khắc sâu trong óc các em.
Câu hỏi còn là phương tiện quan trọng giúp giáo viên chỉ đạo, củng cố và kiểm tra nhận thức của học sinh. Thông qua câu hỏi giáo viên nắm bắt kết quả lĩnh hội kiến thức của các em. Việc kiểm tra kiến thức còn giúp giáo viên tìm ra những phương pháp tác động cho phù hợp với nhận thức, trình độ của học sinh và điều chỉnh quá trình sư phạm của mình.
Như vậy có thể nói rằng câu hỏi có vị trí, ý nghĩa to lớn trong việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, khi sử dụng câu hỏi trong dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ tránh được tình trạng học sinh thụ động tiếp thu kiến thức. 
3.1.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy bài “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 – 1945” lớp 11 cơ bản.
Căn cứ vào vị trí, mục đích, nội dung của bài có thể đặt ra các loại câu hỏi theo 4 mức độ sau:
Mức độ
Câu hỏi
Nhận biết
Câu 1: Vì sao Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ? Kẻ chủ mưu gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai là ai?
Câu 2: Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) mang tính chất gì? Kết cục của nó ra sao?
Câu 3: Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945 ) có ba chiến thắng lớn của hồng quân Liên Xô. Đó là những chiến thắng nào? Em hãy trình bày những nét chính về ba chiến thắng đó?
Hiểu
Câu 1: Phân tích nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ hai?
Câu 2: Từ diễn biến của chiến tranh thế giới thứ hai, hãy rút ra tác dụng, ý nghĩa ba chiến thắng lớn của Hồng quân Liên Xô đối với toàn cục cuộc chiến tranh?
Câu 3: Tại sao nói việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn bản tính chất, cục diện của cuộc chiến tranh?
Câu 4: Vì sao nói chiến thắng Xtalingrat đã làm xoay chuyển cục diện của chiến tranh thế giới thứ hai?
Vận dụng
Câu 1: Em đánh giá như thế nào về sự kiện Muy-ních?
Câu 2: So sánh tính chất của Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh thế giới thứ hai?
Câu 3: Từ kết cục của Chiến tranh thế giới thứ hai, em hãy rút ra nhận xét?
Câu 4: Em hãy chứng minh những hành động quân sự và xâm lược của phe phát xít trong những năm 30 của thế kỉ XX chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Vận dụng cao
Câu 1 : Từ hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, hãy rút ra bài học cho cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới hiện nay?
Câu 2: Đánh giá vai trò của Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít?
Câu 3: Chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động như thế nào đến tình hình Việt Nam trong giai đoạn 1939-1945?
Câu 4: Có nhận định cho rằng, kẻ tội phạm châm ngòi cho Chiến tranh thế giới thứ hai là chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật Bản. Nhưng các nước Anh, Pháp, Mĩ cũng phải chịu trách nhiệm một phần về sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Ý kiến của em về nhận định trên?
Câu 5. Đánh giá âm mưu và hành động của Mĩ khi ném bom nguyên tử sát hại thường dân Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai.
3.1.3. Một số nguyên tắc khi sử dụng hệ thống câu hỏi
Để nâng cao hiệu quả sử dụng câu hỏi cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Một là: Đảm bảo tính chính xác, khoa học. Câu hỏi phải bám sát nội dung chương trình học, có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu. Đó là những câu hỏi nêu được vấn đề cần đặt ra để có thể hiểu đúng, sâu sắc hơn sự kiện	 Hai là: Đảm bảo tính sư phạm. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, bởi xét đến cùng, mọi phương tiện dạy học dù hiện đại đến đâu thì cũng chỉ có thể phát huy được tác dụng của mình nếu giáo viên có phương pháp sư phạm tốt. Nguyên tắc sư phạm trong sử dụng câu hỏi được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Phù hợp với trình độ học sinh. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi phải đảm bảo tính vừa sức, không quá dễ cũng không quá khó làm giảm hứng thú của học sinh khi học tập. 
- Sử dụng đúng mục đích. Mỗi một loại câu hỏi có một chức năng riêng nên chúng phải được nghiên cứu cụ thể để sử dụng đúng mục đích, phù hợp với yêu cầu bài học.
- Sử dụng đúng thời điểm. Khi nêu câu hỏi nhất định phải để cho học sinh có thời gian để suy nghĩ để trả lời, học sinh khác có thể bổ sung và tranh luận sau đó giáo viên mới nhận xét, tổng kết lại.
- Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm. Câu hỏi hợp lý, trọng tâm giúp học sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những kiến thức được tìm hiểu.
- Lưu ý đến nhiều đối tượng học sinh trong lớp. Trong quá trình dạy học, giáo viên đặt và sử dụng câu hỏi cần phải linh hoạt, tùy theo từng lớp và từng đối tượng học sinh. Khi đặt câu hỏi cần ngắn gọn đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với tư duy của học sinh. 
- Kết hợp với nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học khác như: kết hợp với việc sử dụng đồ dùng trực quan, khai thác các nguồn tài liệu khác cùng các thao tác sư phạm hợp lý để vận dụng linh hoạt trong giờ học góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
Ba là:  Đảm bảo tính truyền cảm. Trong quá trình tổ chức dạy học, khi đặt ra câu hỏi người giáo viên cần có ngôn ngữ truyền cảm, có ngữ điệu rõ ràng, có thái độ xúc cảm đối với các sự kiện hiện tượng lịch sử. 
3.1.4. Kỹ năng sử dụng hệ thống câu hỏi
3.1.4.1. Phân loại hệ thống câu hỏi
Theo mục đích, hệ thống câu hỏi trong một bài học lịch sử hiện nay có cách phân chia như sau:
- Câu hỏi kiểm tra bài cũ: mục đích là nhằm giúp học sinh liên hệ, nhớ lại kiến thức cũ đồng thời tạo sự khởi động phấn khởi cho học sinh khi học bài mới.
- Câu hỏi nhằm phát hiện, tái hiện kiến thức: nhằm để cung cấp nội dung bài học.
- Câu hỏi phát triển tư duy: nhằm giúp học sinh rèn luyện thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp Vì những câu hỏi đó chỉ trả lời được khi có sự liên hệ suy luận với những kiến thức đã học.
 - Câu hỏi củng cố: thường là những câu hỏi ở cuối mỗi bài giúp học sinh hệ thống kiến thức trong bài học. Giáo viên tùy theo bài học có thể mở rộng liên hệ thực tiễn hiện nay.
Việc phân loại câu hỏi sẽ giúp cho giáo viên xác định các biện pháp sư phạm để hướng học sinh lĩnh hội kiến thức, bởi mỗi loại câu hỏi thể hiện một nội dung khác nhau thì phương pháp sử dụng cũng khác nhau.
3.1.4.2. Các bước tiến hành
	Việc sử dụng câu hỏi phải được tiến hành theo các bước sau:
Bước1: Giáo viên cung cấp kiến thức hoặc gợi nhớ những nội dung lịch sử đã học trước khi tìm hiểu nội dung mới.
Bước2: Giáo viên đưa ra câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài học.
Bước 3: Học sinh trình bày, trả lời câu hỏi mà giáo viên đã nêu.
Bước 4: Học sinh khác nhận xét, bổ sung ý kiến. Giáo viên kết luận, đánh giá.
3.1.5. Cách sử dụng hệ thống câu hỏi.
Để sử dụng tốt các câu hỏi trên vào bài giảng giúp học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động khi lĩnh hội kiến thức mới giáo viên cần vận dụng cách dạy học nêu vấn đề để học sinh tiện theo dõi. Ngay khi dẫn dắt vào bài mới giáo viên nêu bật được những vấn đề cơ bản cần giải quyết ghi trên bảng phụ:
	- Vì sao cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ?
	- Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra như thế nào?
	- Kết cục của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ra sao?
Với cách đặt câu hỏi này giáo viên đã kích thích được niềm đam mê học tập của học sinh. Nhưng các em chưa thể trả lời được mà phải theo dõi bài giảng để trả lời.
Mục I: Con đường dẫn đến Chiến tranh
- GV yêu cầu HS đọc sách giáo khoa trang 90, 91 kết hợp với việc giáo viên gợi cho HS nhớ lại các bước phát triển thăng trầm của CNTB giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới. Yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi thứ nhất “Bằng những kiến thức đã học kết hợp với sách giáo khoa em hãy cho cô biết nguyên nhân nào dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai?”.
Để giúp học sinh trả lời được giáo viên có thể sử dụng câu hỏi gợi mở:
	+ Trong những năm 1931 – 1937 các nước phát xít đã có những hành động xâm lược nào? Những hành động đó nói lên điều gì?
	+ Trước chính sách bành trướng xâm lược của phe phát xít, các nước lớn có thái độ như thế nào? Em có nhận xét gì về những thái độ đó?
HS đại diện trả lời, HS khác nhận xét, GV hướng dẫn HS chỉ ra được nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai:
+ Sự phát triển không đều của CNĐQ 
+ Chính sách xâm lược của các nước phát xít.
+ Thái độ của các nước lớn (Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ)
- Sau đó GV yêu cầu HS trả lời câu hỏi sau: Có ý kiến cho rằng: Anh, Pháp, Mĩ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc để chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?
Mục II: Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và lan rộng ở Châu Âu (9/1939 – 6/1941)
GV hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ “Mặt trận Xô – Đức” để hoàn thành bảng niên biểu về quá trình xâm chiếm châu Âu của phát xít Đức từ 9/1939 – 6/1941.
Học sinh hoàn thiện và trình bày kết quả. GV nhận xét và tổng hợp:
Thời gian
Chiến trường
Kết quả
9/1939 đến 6/1941
Châu Âu
Chiến tranh bùng nổ, Đức thôn tính và thống trị hầu hết các nước châu Âu.
9/1940
Bắc Phi
Đức , I-ta-li-a đánh chiếm Bắc Phi.
6/1941
Liên Xô
Đức bất ngờ tấn công và nhanh chóng tiến sâu vào lãnh thổ của Liên Xô theo ba hướng.
Mục III. Chiến tranh lan rộng khắp thế giới (6/1941 – 11/1942)
GV hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ kết hợp với sách giáo khoa trình bày những nét chính về diễn biến Chiến tranh thế giới thứ hai từ 6/1941 đến tháng 11/1942 và yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi:
	+ Tại sao nói việc Liên Xô tham chiến đã làm thay đổi căn bản tính chất, cục diện của cuộc chiến tranh?
HS đại diện trả lời, HS khác nhận xét, GV nhận xét, chốt ý:
Trước khi Liên Xô tham chiến cuộc Chiến tranh là cuộc tranh giành đất đai, của cải, xâm lược phi nghĩa.Từ khi Liên xô tham chiến trở thành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và chống chủ nghĩa phát xít, cuộc chiến tranh trở thành chính nghĩa.
Mục IV. Quân đồng minh chuyển sang phản công. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (11/1942 – 8/1945).
GV sử dụng bản đồ CTTG II tường thuật cho HS về trận phản công của hồng quân Liên Xô và yêu cầu HS trả lời các câu hỏi sau:
	+ Vì sao nói chiến thắng Xtalingrat đã làm xoay chuyển cục diện của chiến tranh thế giới thứ hai?
	+ Từ diễn biến của chiến tranh thế giới thứ hai, hãy rút ra tác dụng, ý nghĩa ba chiến thắng lớn của Hồng quân Liên Xô đối với toàn cục cuộc chiến tranh: Chiến thắng Mátxcơva (12/1941), Chiến thắng Xtalingrat (2/1943), Chiến thắng phát xít Đức (5/1945).
	+ Trình bày ba chiến thắng lớn của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945 ).
	+ Đánh giá vai trò của Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít?
Mục V: Kết cục của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Dạy mục này giáo viên sử dụng câu hỏi dưới dạng thảo luận nhóm, giáo viên chia cả lớp làm 4 nhóm với 4 câu hỏi như sau:
+ Nhóm 1: Các cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại hậu quả như thế nào? Kết cục của Chiến tranh gợi cho em suy nghĩ gì?
+ Nhóm 2: Nêu đặc điểm và tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai? Trước nguy cơ chiến tranh em có thái độ như thế nào?
+ Nhóm 3: So sánh kết cục của Chiến tranh thế giới thứ nhất với kết cục của Chiến tranh thế giới thứ hai?
+ Nhóm 4: Đánh giá vai trò của Liên Xô và các nước đồng minh trong việc tiêu diệt Chủ nghĩa phát xít?
Câu hỏi thảo luận trong mục này có thể khai thác tốt tư duy của học sinh sau khi các em tìm hiểu về diễn biến của chiến tranh. Giáo viên sử dụng câu hỏi thảo luận tr

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_nghien_cuu_tai_lieu_phuong_phap_dieu_tra_kh.doc