SKKN Phát triển năng lực tự học (NLTH) cho học sinh lớp 11 qua giờ văn học sử

SKKN Phát triển năng lực tự học (NLTH) cho học sinh lớp 11 qua giờ văn học sử

Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực (NL) của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh (HS) học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”;“Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới nhằm hình thành và phát triển cho HS những NL chung chủ yếu: năng lực tự học (NLTH), NL giải quyết vấn đề và sáng tạo, NL thẩm mỹ, NL thể chất, NL giao tiếp, NL tính toán, NL công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), trong đó NLTH được đặt lên hàng đầu thể hiện tầm quan trọng của việc tự học, tự nghiên cứu của HS trong thời đại hiện nay.

 

doc 15 trang thuychi01 5350
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phát triển năng lực tự học (NLTH) cho học sinh lớp 11 qua giờ văn học sử", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.1.1. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực (NL) của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh (HS) học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”;“Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới nhằm hình thành và phát triển cho HS những NL chung chủ yếu: năng lực tự học (NLTH), NL giải quyết vấn đề và sáng tạo, NL thẩm mỹ, NL thể chất, NL giao tiếp, NL tính toán, NL công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), trong đó NLTH được đặt lên hàng đầu thể hiện tầm quan trọng của việc tự học, tự nghiên cứu của HS trong thời đại hiện nay. 
1.1.2. Thế kỷ XXI là thời đại của nền “kinh tế tri thức”. Công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển đã và đang dẫn đến sự bùng nổ thông tin. Ngày nay mạng internet đang là nơi để mỗi người tự cập nhật thông tin cho mình. Thế giới đang vận hành và thay đổi từng giây. Để nắm bắt được thông tin không còn cách nào khác là mỗi chúng ta phải đọc và phải học từng ngày, từng giờ.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn CNH - HĐH với mục tiêu đến năm 2020 sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc CNH - HĐH là con người là nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Để làm được điều này giáo dục Việt Nam đang phải đứng trước một bài toán: phải đổi mới một cách toàn diện từ mục tiêu, nội dung đến phương pháp và phương tiện dạy học. Mục đích cuối cùng là để từng cá nhân tự mình có ý thức tạo được một cuộc cách mạng học tập trong bản thân mỗi con người. HS được phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, con người cá nhân và con người xã hội trên cơ sở duy trì, tăng cường và định hình các phẩm chất và NL đã hình thành ở cấp trung học sơ sở; có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản được định hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp phù hợp với năng khiếu và sở thích; phát triển NL cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học lên hoặc bước vào cuộc sống lao động với phẩm chất, NL của một công dân.
Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Để đáp ứng được mục tiêu chương trình giáo dục cấp THPT sau năm 2015 không còn cách nào khác là HS phải tự học, tự tìm tòi và khám phá những nguồn thông tin mới bổ ích cho mình. Bản thân mỗi HS và nhà trường phải tiến hành một cuộc cách mạng trong học tập. Trước tiên và trên hết là cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học. Phương pháp dạy - học văn cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Làm sao để HS quan tâm, yêu - thích và học tốt môn Văn đang là nỗi băn khoăn, trăn trở của các nhà phương pháp. 
1.1.3. Giờ văn học sử (VHS) mở ra nhiều cơ hội cho HS tự học, vừa có kiến thức khái quát, vừa có kiến thức cụ thể, mang tính tổng hợp, tính tích hợp cao. Các bài VHS trong chương trình là những bài tổng kết về một thời kỳ văn học, một giai đoạn văn học, khái quát về một tác gia (tiểu sử và sự nghiệp sáng tác), khái quát về một tác phẩm (giá trị nội dung và nghệ thuật).
Văn học của bất cứ thời kỳ nào bao giờ cũng vận động và phát triển trong sự gắn bó chặt chẽ với chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa của một thời kỳ lịch sử nhất định. Do vậy kiến thức của giờ VHS là kiến thức mang tính tổng hợp về lịch sử, xã hội, văn hóa, triết học, tôn giáo, chính trị... Những kiến thức mang tính tổng hợp như kiến thức về lịch sử, về tư tưởng, văn hóa có ảnh hưởng qua lại tới văn học. 
Với khối lượng kiến thức như vậy GV không thể truyền đạt tất cả cho HS trong các buổi học trên lớp mà GV cần định hướng cho HS tự học bằng hệ thống câu hỏi, bài tập để các em tự động não suy nghĩ tìm hiểu khám phá kiến thức trong SGK, tự đọc sách, tự tra cứu tài liệu mở rộng kiến thức. Đây là cơ hội tốt nhất cho sự phát triển NLTH ở HS.
1.1.4. Đối với các bài VHS lâu nay GV vẫn giữ phương pháp giảng dạy theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: GV giảng, HS lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà GV đã truyền đạt. GV chủ động cung cấp kiến thức cho HS, áp đặt cách cảm, cách hiểu biết của mình tới HS, kết quả kiểm tra, đánh giá tùy thuộc vào khả năng tái hiện lượng kiến thức ít hay nhiều theo lời thầy giảng hoặc theo kiến thức sẵn có trong SGK. Phương pháp dạy học như vậy đã làm thủ tiêu NLTH, HS không có cơ hội phát triển NL độc lập sáng tạo, tự nghiên cứu của mình. Dẫn đến tình trạng HS chán học, thờ ơ với bài giảng của GV. Làm thế nào để thu hút được sự quan tâm của HS trong giờ VHS, qua đó phát triển NLTH cho các em để khi rời ghế nhà trường THPT các em đáp ứng được chuẩn đầu ra mà sách giáo khoa (SGK) lần này hướng tới. Đây là vấn đề đang thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Vì vậy tôi lựa chọn đề tài: “Phát triển năng lực tự học(NLTH) cho học sinh lớp 11 qua giờ văn học sử” nghiên cứu, với mong muốn được góp phần nhỏ bé vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT hiện nay, bằng các biện pháp học tập phù hợp qua việc dạy các bài VHS giúp phát triển NLTH cho HS THPT. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những phương pháp, biện pháp dạy học trong giờ VHS nhằm phát triển NLTH cho HS.
Góp phần phát triển NLTH cho HS theo yêu cầu đổi mới của chương trình và SGK sau 2015. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
HS lớp 11 và NLTH.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi dự kiến sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 
1.4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết
Để thực hiện đề tài này chúng tôi tiến hành nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng. Sau đó tổng hợp từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu.
1.4.2 Phương pháp điều tra, khảo sát
Để nắm được thực trạng vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, có hệ thống, đảm bảo tính chính xác, khách quan, chúng tôi tiến hành điều tra bằng phiếu đối với GV và HS. Kết quả điều tra là căn cứ chủ yếu để xây dựng các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động dạy - tự học.
1.4.3. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành thu thập thông tin về quá trình tự học ở trường THPT để nắm được thực trạng dạy và học hiện nay dựa trên cơ sở quá trình giao tiếp bằng lời nói. Đưa ra những câu hỏi theo một chương trình được định sẵn trên những cơ sở đề tài đã đưa ra.
1.4.4. Phương pháp thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT theo phương án đã soạn thảo, nhằm khẳng định tính khả thi của việc lựa chọn phương pháp dạy học, các biện pháp sư phạm đã sử dụng với mục đích bồi dưỡng NLTH cho HS.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là một tấm gương sáng về tự học. Đó là cách học kiên trì, bền bỉ, năng động và học thường xuyên. Quan niệm về tự học, Người cho rằng“Tự học là cách học tự động” và “phải biết tự động học tập”. Theo Người: “tự động học tập” tức là tự học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch kế hoạch học tập cho mình, rồi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học của mình”. Lênin cũng có câu nói rất nổi tiếng nói về quá trình học lâu dài và thường xuyên cần có ở mỗi người: “ Học! Học nữa! Học mãi” đã khẳng định ý chí và nghị lực quyết tâm học tập suốt đời. Để làm được điều đó đòi hỏi bản thân người học phải có ý thức tự học, học tập phải là nhiệm vụ thường xuyên, được tiến hành bền bỉ, lâu dài, có củng cố, rèn luyện mới đạt hiệu quả cao.
Người có NLTH là người có khả năng tự mình động não suy nghĩ, sử dụng các NL trí tuệ và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất, động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân loại, biến nó thành sở hữu của riêng mình.
Kiến thức VHS là một hệ thống những luận điểm, những nhận định vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính khái quát giúp HS nâng cao mặt lí luận, tầm nhìn bao quát sâu sắc hơn. VHS cung cấp cho HS một khối lượng kiến thức phong phú về tri thức cụ thể đó là tác phẩm, tác giả, mốc thời gian, sự kiện văn học. Ngoài ra, VHS còn có khả năng rèn luyện tư duy logic và tư duy hình tượng cho HS. Tư duy logic và tư duy hình tượng rất cần thiết cho việc tiếp nhận tri thức văn chương, đặc biệt đối với tri thức VHS nói riêng. Qua giờ VHS HS sẽ được rèn luyện các kỹ năng như: Phân tích, tổng hợp, cụ thể hóa, khái quát hóa, ghi nhớ, so sánh, đối chiếu, suy luận,... Ngoài ra giờ VHS còn hình thành ở HS thói quen tự nghiên cứu và làm việc với SGK như: Xác định các luận điểm chính của bài học, hệ thống hóa các luận cứ, luận chứng, phạm trù, định nghĩa.
Kiến thức VHS vừa có tính liên môn vừa có tính liên cấp giúp HS tích lũy và mở rộng tri thức, biết suy luận theo phương pháp tư tưởng tiến bộ. Ngoài mối quan hệ liên môn, liên cấp, kiến thức VHS còn có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng, mở rộng tri thức nhiều mặt cho HS.
Kiến thức VHS còn góp phần giúp HS hình thành quan điểm và phương pháp phân tích, đánh giá các hiện tượng văn học một cách khoa học. Với lượng kiến thức rộng như vậy việc chỉ nghiên cứu SGK sẽ gây khó khăn cho HS trong việc tiếp nhận kiến thức VHS. 
Đối với tác phẩm văn học được học ở bình diện VHS, việc phân tích, đánh giá phải xuất phát từ nguồn gốc ra đời của tác phẩm, đặc biệt chú ý đến cảm hứng sáng tác sau đó xem xét mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề, hình thức và nội dung trên cái nhìn tổng thể, đặt các tác phẩm đó trong vị trí nhất định của quá trình sáng tác của nhà văn, tìm hiểu lịch sử tiếp nhận của độc giả đối với tác phẩm qua các thời đại.
Vì vậy, để học tốt VHS, HS cần chủ động, tự giác trong học tập, huy động thêm các nguồn lực bên ngoài SGK như: tìm kiếm tài liệu trên mạng Internet qua các nguồn học liệu mở, blog... tài liệu tham khảo, trao đổi thảo luận cùng bạn bè, thầy cô để cùng nhau làm rõ những luận cứ, luận điểm trong bài VHS.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Đối với giáo viên
Từ trước tới giờ, kiến thức VHS ở trường phổ thông còn nhiều ngộ nhận, chưa quan tâm đúng mực, đặc biệt trong quá trình giảng dạy nhiều GV có thái độ xem nhẹ, thậm chí bỏ qua chúng. Thực tế cho thấy tình trạng dạy bài VHS theo phương pháp truyền thống vẫn được sử dụng một cách rộng rãi. Điều này được thể hiện trước hết ở việc soạn giáo án của GV. Phần lớn GV soạn giáo án chỉ chú trọng đến hoạt động của thầy mà không chú trọng đến hoạt động của trò, nếu có là rất ít. Cũng có nhiều GV chưa nhận thức được việc soạn giáo án là một phương pháp giảng dạy, tiến trình dạy học có đạt được kết quả cao hay không là phụ thuộc vào phương pháp soạn giáo án của GV, phương pháp dạy học chi phối cách soạn giáo án của GV.
Bên cạnh đó, phương pháp dạy truyền thống chiếm ưu thế, chủ yếu GV thuyết trình và “độc diễn”. Phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, HS phải học thuộc kiến giải của thầy. Bên cạnh đó khi giảng dạy GV chưa có biện pháp giám sát việc chuẩn bị bài, đọc bài, học bài của HS. Đa số GV dạy văn đều có ý thức khơi dậy thói quen và NLTH, tinh thần chủ động tích cực, nuôi dưỡng hứng thú học văn cho HS. Nhưng nhìn chung họ thường tỏ ra lung túng, thậm chí bất lực trong việc thực hiện những mong muốn của mình.
Với cách dạy như vậy GV không thể phát huy được tính chủ động của HS. HS là khách thể trong quá trình dạy học, thụ động và hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động của GV. Không phát huy được NL tư duy, phân tích, so sánh tổng hợp của HS. 
2.2.2. Đối với học sinh
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, đa số HS chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kinh tế, kĩ thuật,... HS ít có hứng thú với môn văn, các em cho rằng không học văn vẫn biết đọc, biết viết, học văn không thiết thực, nhưng đổi lại nếu các em không học các môn khoa học tự nhiên thì coi như là học kém, nếu em nào theo học các môn khoa học xã hội thì bị coi nhẹ.
Điều đáng nói nữa là hiện nay xã hội hiện đại có tác động không nhỏ đối với HS phổ thông. Các em có thể nói vanh vách về tiểu sử của một ca sĩ, người mẫu, diễn viên điện ảnh thậm chí họ là người nước ngoài, nhưng lại tỏ ra ấp úng khi được hỏi đến tiểu sử của một tác gia văn học, sự nhầm lẫn về tác giả của tác phẩm này với tác phẩm khác hay còn gọi là “ râu ông nọ cắm cằm bà kia” là hiện tượng vẫn diễn ra. Điều này cho thấy, giữa môn văn với thực tế cuộc sống cũng có độ chênh khá lớn. Những điều được học khi ngồi trên ghế nhà trường không được HS vận dụng ngoài cuộc sống, thậm chí có tình trạng phê phán trái chiều trở lại thầy cô.
Do ngại đọc, ngại tìm hiểu bài trước khi lên lớp nên khả năng phát hiện, nắm bắt luận điểm, cách lập dàn ý của HS còn non yếu. Nhiều trường hợp nhầm lẫn đưa luận điểm lớn thành luận điểm nhỏ và ngược lại.
Tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy thực trạng dạy và học nói chung, bộ môn Ngữ văn nói riêng cần phải thay đổi một cách toàn diện về phương pháp, để từ đó phát huy được NLTH, sự chủ động của HS trong học tập. Tạo cho các em tâm thế độc lập trên mọi lĩnh vực. Đây là vấn đề còn nhiều băn khoăn, trăn trở. Qua đó, giúp các em có được phương pháp học tập chủ động nhất để tự tin khi bước vào lớp học..
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Xuất phát từ thực trạng trên bản thân đã tiến hành các giải pháp sau:
2.3.1. Nhóm biện pháp chuẩn bị bài học trước khi lên lớp
Đây là một hoạt động thường lệ diễn ra trước giờ học, không chỉ riêng đối với bất kỳ môn học nào. Đó là việc GV hướng dẫn HS chuẩn bị trước nội dung bài học sắp tới để các em có thể chủ động trong giờ học và học tập tốt hơn. Hoạt động này khuyến khích tính tích cực của các em. Tạo thế chủ động trong suy nghĩ. Các em sẽ không bị áp đặt bị động trước lời giảng của GV. 
Nhưng thực tế giảng dạy cho thấy, hoạt động này chưa được chú trọng từ phía HS và GV. Bài soạn của HS mang tính chất đối phó là chủ yếu, sự kiểm tra của GV đối với việc chuẩn bị bài của HS chưa sát sao, còn buông lỏng. Trong nhóm biện pháp này GV có thể tiến hành theo các bước sau:
2.3.1.1. Lập kế hoạch học tập cho giờ VHS
GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu. Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV không cần phải dạy ngay mà cần giới thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để HS hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp
GV cần thường xuyên đánh giá quá trình lập kế hoạch học tập ở HS. Đánh giá thường xuyên của GV và bản thân HS về quá trình tự học và hoàn thành kế hoạch tự học là phương tiện mạnh mẽ, để kích thích, nâng cao quá trình tự học của người học. 
Ví dụ: Lập kế hoạch học tập bài tác giả Nam Cao
Trước hết cần xác định mục tiêu bài học là:
- Nắm được những nét chính về conngười, quan điểm nghệ thuật, các đề tài chính, sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật của Nam Cao.
- Rèn kỹ năng hệ thống hóa kiến thức, phân tích, tổng hợp những vấn đề VHS.
Tiếp theo là lập kế hoạch thực hiện mục tiêu:
+ Tìm hiểu về tiểu sử, con người nhà văn Nam Cao
+ Tìm hiểu quan điểm nghệ thuật của Nam Cao
+ Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
Phương pháp thực hiện:
+ Đọc SGK, tài liệu tham khảo, tra cứu trên mạng internet những tài liệu có liên quan đến nhà văn Nam Cao.
+ Phương pháp đọc và ghi nhớ tài liệu.
+ Tóm tắt các ý chính, viết đề cương cho bài học
Cuối cùng là kiểm tra, điều chỉnh kế hoạch:
Nhìn lại kế hoạch, công việc xem có gì bất hợp lí không; có những bước công việc nào cần phải kiểm tra, thông thường có bao nhiêu công việc thì cũng cần số lượng tương tự các bước phải kiểm tra, ví dụ kiểm tra lại các kế hoạch đề ra, phương pháp thực hiện có gì bất hợp lí để điều chỉnh kịp thời.
2.3.1.2. Nghiên cứu bài học
Nghiên cứu bài học nghĩa là việc GV định hướng cho HS chuẩn bị bài trước ở nhà, nhất là việc đọc SGK, tài liệu tham khảo có liên quan. Đối với bài VHS có kiến thức sâu rộng, nếu chỉ học trên lớp HS sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, việc khuyến khích HS nghiên cứu bài trước khi lên lớp là một việc làm rất quan trọng, khi đến lớp chú ý nghe cô giáo giảng bài cùng với sự chuẩn bị ở nhà thì kiến thức của các em sẽ được đào sâu hơn. 
2.3.1.3. Xây dựng đề cương cho bài học
Đây là khâu cuối cùng của việc chuẩn bị bài học trước khi lên lớp. HS tiến hành xây dựng đề cương cho bài học sau khi đã nghiên cứu tài liệu, SGK có liên quan đến bài học. Việc lập đề cương cho bài học giúp cho HS theo dõi bài giảng và tiếp nhận tri thức của GV một cách chủ động hơn.
GV hướng dẫn HS vạch ra các ý chính, xác định ý lớn và các ý nhỏ triển khai cho ý lớn, nhận biết và phân tích các sự kiện lịch sử liên quan đến bài học. Sắp xếp hệ thống luận điểm đã thu thập được từ tài liệu và SGK thành một hệ thống hoàn chỉnh, lôgíc. Sau đó các em viết thành một bài theo cách nghĩ của mình về bài học đã chuẩn bị để khi đến lớp trình bày cho GV và các bạn nhận xét
Ví dụ: Đối với bài về tác giả Nam Cao, sau khi đã tiến hành các biện pháp trên thì các em tiến hành xây dựng đề cương cho bài học do mình chuẩn bị. Ở đề cương này các em vạch ra những ý chính về:
- Tiểu sử, con người nhà văn Nam Cao, trong đó bao gồm: tên thật của nhà văn, quê quán, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, tính cách con người.
- Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao: Nghệ thuật vị nhân sinh; Nghề văn phải là nghề sáng tạo.
- Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao: Trước cách mạng và sau cách mạng.
+ Phong cách nghệ thuật: 
Nam Cao luôn có hứng thú khám phá “con người trong con người”, có biệt tài diễn tả phân tích tâm lý nhân vật.
Nam Cao thường sử dụng thủ pháp đối thoại và độc thoại nội tâm.
Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh, tầm thường trong đời sống hàng ngày để từ đó tìm ra triết lí sâu xa của cuộc sống. 
Giọng điệu buồn thương chua chát, lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương
2.3.2. Nhóm biện pháp học tập trên lớp
Đó là hình thức tổ chức dạy học trong các giờ học chính khóa. GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo các nội dung học tập. Nhóm biện pháp này nhằm giúp các em HS thực sự trở thành chủ thể của mọi hoạt động học tập. Ở đó GV là người hướng dẫn, là trọng tài cho các em thông qua hình thức thảo luận nhóm, thông qua việc trả lời câu hỏi mà GV đưa ra
2.3.2.1. Thảo luận nhóm
Đây là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham gia tích cực của HS trong học tập. Trong thảo luận nhóm, HS được tham gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thàn

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phat_trien_nang_luc_tu_hoc_nlth_cho_hoc_sinh_lop_11_qua.doc