SKKN Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2 / 9 / 1945 đến trước ngày 19 / 12 / 1946 ở lớp 12 chương trình chuẩn

SKKN Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2 / 9 / 1945 đến trước ngày 19 / 12 / 1946 ở lớp 12 chương trình chuẩn

Môn lịch sử trong trường THPT là môn học có ý nghĩa và vị trí quan trọng đối với việc đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục đã được Đảng và Nhà nước ta xác định. Bởi lịch sử giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản cần thiết về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc làm cơ sở bước đầu cho sự hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, tình đoàn kết quốc tế. Trên nền tảng kiến thức đã học môn lịch sử còn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, hành động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển con người Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, tình trạng học sử của học sinh ngày nay là một điều báo động. Học sinh không thích học sử, vô cảm trước lịch sử, và như vậy sẽ có nguy cơ vô cảm trước vận mệnh dân tộc.

Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều, theo tôi tựu chung lại có mấy lý do sau: Thứ nhất, Sách giáo khoa Lịch sử mang tính hàn lâm, chưa hấp dẫn, kiến thức còn dàn trải, nặng nề.Thứ hai, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn đến học sinh chỉ tập trung học những môn thi vào các trường đại học sau này ra kiếm được nhiều tiền.Thứ ba, lối dạy lịch sử vẫn chủ yếu thầy nói trò nghe làm cho chất lượng bộ môn không cao.Thứ tư, vấn đề thi cử đánh giá như hiện nay cũng ảnh hưởng tới chất lượng dạy học lịch sử. Môn sử chỉ là môn tự chọn. Học sinh ít chọn môn lịch sử đương nhiên các em sẽ không học lịch sử.

Để khắc phục thực trạng trên cần có sự tham gia của toàn xã hội mà đặc biệt là ngành giáo dục nước nhà để có những giải pháp tối ưu. Song theo chủ quan của tôi cần phải có những giải pháp sau: Thứ nhất, đưa môn lịch sử về đúng với vị trí, vai trò của nó. Xác định lịch sử là môn học chính khóa bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông nước ta.Thứ hai, biên soạn lại sách giáo khoa lịch sử phổ thông theo hướng bỏ bớt tính hàn lâm để lịch sử gần gũi hơn, sinh động hơn.Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy môn lịch sử ngang tầm với yêu cầu mới.

 

doc 29 trang thuychi01 13831
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2 / 9 / 1945 đến trước ngày 19 / 12 / 1946 ở lớp 12 chương trình chuẩn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
I. MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Đối tượng nghiên cứu
3
4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. NỘI DUNG
3
1. Cơ sở lý luận của SKKN
3
2. Thực trạng của việc xây dựng câu hỏi trong dạy học bài 17...
4
3. Những giải pháp thực hiện
4
3.1.Nhận thức đúng về vấn đề xây dựng hệ thống câu hỏi
4
3.2. Xây dựng bảng hệ thống câu hỏi trong bài 17...
5
3.3. Nguyên tắc khi sử dụng câu hỏi
6
3.4. Kỹ năng sử dụng câu hỏi
7
3.4.1. Phân loại hệ thống câu hỏi
7
3.4.2. Các bước tiến hành
8
3.5. Sử dụng hệ thống câu hỏi trong bài 17...
8
3.5.1. Sử dụng câu hỏi ở phần kiểm tra bài cũ
8
3.5.2. Sử dụng câu hỏi nhằm cung cấp nội dung kiến thức...
8
3.5.3. Sử dụng câu hỏi nhằm khai thác kênh hình...
11
3.5.4. Sử dụng câu hỏi nhằm củng cố bài học
16
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục...
17
4.1. Hiệu quả
17
4.2. Kết quả thực nghiệm
17
III. Kết luận, kiến nghị
17
1. Kết luận
17
2. Kiến nghị
18
Phụ lục
19
Tài liệu tham khảo
29
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Môn lịch sử trong trường THPT là môn học có ý nghĩa và vị trí quan trọng đối với việc đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục đã được Đảng và Nhà nước ta xác định. Bởi lịch sử giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản cần thiết về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc làm cơ sở bước đầu cho sự hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, tình đoàn kết quốc tế. Trên nền tảng kiến thức đã học môn lịch sử còn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, hành động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển con người Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, tình trạng học sử của học sinh ngày nay là một điều báo động. Học sinh không thích học sử, vô cảm trước lịch sử, và như vậy sẽ có nguy cơ vô cảm trước vận mệnh dân tộc.
Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều, theo tôi tựu chung lại có mấy lý do sau: Thứ nhất, Sách giáo khoa Lịch sử mang tính hàn lâm, chưa hấp dẫn, kiến thức còn dàn trải, nặng nề.Thứ hai, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn đến học sinh chỉ tập trung học những môn thi vào các trường đại học sau này ra kiếm được nhiều tiền.Thứ ba, lối dạy lịch sử vẫn chủ yếu thầy nói trò nghe làm cho chất lượng bộ môn không cao.Thứ tư, vấn đề thi cử đánh giá như hiện nay cũng ảnh hưởng tới chất lượng dạy học lịch sử. Môn sử chỉ là môn tự chọn. Học sinh ít chọn môn lịch sử đương nhiên các em sẽ không học lịch sử...
Để khắc phục thực trạng trên cần có sự tham gia của toàn xã hội mà đặc biệt là ngành giáo dục nước nhà để có những giải pháp tối ưu. Song theo chủ quan của tôi cần phải có những giải pháp sau: Thứ nhất, đưa môn lịch sử về đúng với vị trí, vai trò của nó. Xác định lịch sử là môn học chính khóa bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông nước ta.Thứ hai, biên soạn lại sách giáo khoa lịch sử phổ thông theo hướng bỏ bớt tính hàn lâm để lịch sử gần gũi hơn, sinh động hơn.Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy môn lịch sử ngang tầm với yêu cầu mới.
Đâu là phương pháp hiệu quả để kích thích sự say mê, tìm tòi, khám phá của học sinh với môn lịch sử? Đi tìm trong rất nhiều phương pháp dạy học như sử dụng tài liệu tham khảo, sử dụng đồ dùng trực quan, ... thì tôi thấy hiệu quả đó là sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập lịch sử. Bởi vì với những câu hỏi của người thầy, người học chủ động tìm đến, khám phá và tiếp thu những cái mới chứ không chỉ thụ động như những cỗ máy chép. Ngoài ra phương pháp này còn hình thành nên những thao tác tư duy cho các em, rèn luyện kĩ năng tự học tốt hơn.
 Trong dạy học lịch sử, dạy những bài liên quan tới quân sự chiến tranh đã khó thì dạy bài về văn hóa còn khó gấp bội. Ở các bài học này khối lượng kiến thức nhiều, vừa khái quát cao lại đi vào từng biểu hiện cụ thể, chi tiết. Vì vậy đòi hỏi mỗi giáo viên phải sử dụng phương pháp thích hợp, cải tiến cách dạy thì mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Với mong muốn giúp cho thế hệ trẻ của Việt Nam biết và quý trọng những giá trị văn hóa của dân tộc đồng thời biết hội nhập chứ không hòa tan, tôi quyết định chọn bài văn hóa dân tộc để nghiên cứu.
 Tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn của một SKKN tôi chỉ tập trung trình bày về việc xây dựng hệ thống câu hỏi khi dạy tiết 26- bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946” ở lớp 12 chương trình chuẩn. 
 Vì vậy để phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học giúp các em yêu thích hơn môn học lịch sử tôi lựa chọn đề tài này để nghiên cứu.
 2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích mà đề tài này hướng đến chính là để phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học giúp các em yêu thích hơn môn học lịch sử, yêu thích tìm hiểu về tinh thần cách mạng, những truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Từ đó các em sẽ hiểu, cảm nhận được những truyền thống mà ông cha để lại và có ý thức, trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ đất nước.
 3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này sẽ nghiên cứu, tổng kết về phương pháp dạy học môn lịch sử: xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh qua tiết 26-bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946” ở lớp 12 chương trình chuẩn.
 4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu trên cơ sở lý thuyết về phương pháp dạy học môn lịch sử, phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, ...
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
	Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị quyết Trung Ương IV khóa VII (1-1993), nghị quyết trung ương 2 khóa VIII (12-1996), được thể chế hóa trong luật giáo dục (12- 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 5 (4-1999)
	Luật giáo dục, điều 24.2 đã ghi: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh ”
	 Trong phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh có nhiều phương pháp như : đặt và giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, phương pháp vấn đáp (đàm thoại)...Vấn đáp là một phương pháp trong đó giáo viên nêu câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. 
	Sử dụng hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực trong dạy học lịch sử, xét đến cùng cũng là để nâng cao hiệu quả bài học. Theo một số nhà nghiên cứu giáo dục cho rằng tư duy của con người thường bắt nguồn từ những trở ngại về mặt trí tuệ. Hay nói một cách khác đó là những thắc mắc, những ngạc nhiên những rào cản buộc con người phải suy nghĩ để tìm ra câu trả lời. Đây chính là tình huống có vấn đề đặt ra tạo động lực kích thích hoạt động tư duy của học sinh. Ví dụ khi giáo viên đưa ra câu hỏi: Vì sao Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến? Hay câu: Hãy nêu những đóng góp của phong trào Tây Sơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc? Các câu hỏi đưa ra học sinh phải suy nghĩ để tìm ra câu trả lời. Thông qua hoạt động tư duy, qua những hướng dẫn gợi mở của giáo viên, học sinh sẽ dần lĩnh hội được các kiến thức. Khi ấy quá trình dạy học đã đạt được hiệu quả bài học.
2. Thực trạng của việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giảng dạy Đối với các tiết dạy lịch sử đặc biệt là trong tiết Như vậy với bài học trên việc xây dựng hệ thống câu hỏi là rất quan trọng. Tôi nhận thấy việc sử dụng câu hỏi của giáo viên tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực những vẫn còn bộc lộ một số hạn chế sau:
- Giáo viên chưa có nhận thức đúng đắn về việc xây dựng hệ thống câu hỏi. Vì thế trong dạy học thường tiện đâu hỏi đó hoặc hỏi cho có hỏi... 
 - Một số tiết học giáo viên chỉ huy động một số học sinh khá, giỏi tham gia trả lời câu hỏi mà chưa quan tâm đến đối tượng học sinh yếu kém cho nên đối tượng học sinh này ít được tham gia hoạt động, dẫn đến các em thêm tự ti về năng lực của mình và cảm thấy chán nản môn học.
- Các loại câu hỏi chưa phong phú, chưa kích thích được tư duy ham học hỏi của học sinh.
- Giáo viên sử dụng quá nhiều câu hỏi, vụn vặt trong một tiết học dẫn tới bài giảng trở nên dàn trải không khắc sâu những nội dung trọng tâm.
	- Nhiều giáo viên chưa biết kết hợp các phương pháp dạy học đặc biệt là nêu câu hỏi để khai thác tối ưu các kênh hình trong bài học này.
Qua bài học cụ thể này với việc xây dựng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh tôi sẽ giúp cho các em thấy học lịch sử còn là học văn hóa. Nếu không học lịch sử sẽ là tự đánh mất đi văn hóa, bản sắc dân tộc mình. Chính vì vậy vượt qua những khó khăn nêu trên tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu vấn đề: xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh qua tiết 26- bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946” ở lớp 12 chương trình chuẩn.
3. Những giải pháp thực hiện
3.1.Nhận thức đúng về vấn đề xây dựng hệ thống câu hỏi.
	Chỉ khi giáo viên có suy nghĩ, nhận thức đúng về vai trò của câu hỏi thì mới tạo được động lực, quyết tâm để xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học một cách có hiệu quả:
 - Câu hỏi giúp cho học sinh phải nắm được những kiến thức cơ bản của bài học. Kiến thức ở đây không phải là cái mà người thầy cung cấp sẵn cho học sinh. Theo như đại văn hào người Nga Lep Tônxtôi “kiến thức chỉ thực sự là kiến thức khi nó là thành quả cố gắng của tư duy chứ không phải trí nhớ ”. Sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử là dạy cho học sinh biết tư duy. Tư duy càng phát triển thì việc lĩnh hội kiến thức càng dễ dàng. Một hệ thống các câu hỏi sẽ phác họa lại bức tranh chân thực về lịch sử.
    - Việc sử dụng hệ thống câu hỏi không chỉ giúp cho việc hình thành kiến thức mới mà còn là phương tiện quan trọng để củng cố, kiểm tra đánh giá kiến thức học sinh đạt được. Các câu hỏi đưa ra để kiểm tra, đánh giá, người giáo viên biết được học sinh nắm kiến thức ở các mức độ: biết, hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao.
 3.2.Xây dựng bảng hệ thống câu hỏi trong tiết 26- bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946” ở lớp 12 chương trình chuẩn.
Hệ thống câu hỏi trong bài khá phong phú. Tuy nhiên, do thời gian trên lớp hạn chế nên không phải câu hỏi nào cũng khai thác vì còn phải dành thời gian cho các hoạt động khác. Để đạt được hiệu quả sử dụng cao, giáo viên phải chọn lọc được những câu hỏi cơ bản, có giá trị để khai thác. Giáo viên tùy theo mức độ của từng đối tượng học sinh để đặt câu hỏi nhằm nâng cao hiệu quả của giờ học.
TT
Tên mục
Câu hỏi
I
Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945
- Câu hỏi 1: Nước ta sau cách mạng tháng Tám phải đối mặt với những khó khăn nào? 
- Câu hỏi 2: Bên cạnh những khó khăn to lớn đó, nước ta có những thuận lợi cơ bản nào?
- Câu hỏi 3: Từ tình hình đó, em hãy cho biết nhiệm vụ trước mắt cần phải giải quyết của Đảng và chính phủ ta là gì?
II
Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính
1. Xây dựng chính quyền cách mạng
Câu hỏi 1:Đảng và chính phủ lâm thời đã tiến hành xây dựng chính quyền cách mạng như thế nào?
Câu hỏi 2: Trong khi kẻ thù ra sức chống phá nhưng dân ta vẫn nô nức đi bầu cử, việc đó nói lên điều gì?
Câu hỏi 3: Kết quả đạt được trong việc xây dựng chính quyền có ý nghĩa như thế nào?
2. Giải quyết nạn đói
Câu hỏi 1: Đảng và chính phủ đã để ra những biện pháp gì để giải quyết nạn đói?
Câu hỏi 2: Kết quả của những biện pháp đó như thế nào?
Câu hỏi 3: Truyền thống lá lành đùm lá rách của nhân dân ta ngày nay được duy trì như thế nào?
3. Giải quyết nạn dốt
 Câu hỏi 1: Đảng và chính phủ đã để ra những biện pháp gì để giải quyết nạn dốt?
Câu hỏi 2: Kết quả của những biện pháp đó như thế nào?
Câu hỏi 3: Thành tích diệt giặc dốt mà chính quyền cách mạng đạt được có ý nghĩa như thế nào?
4. Giải quyết khó khăn về tài chính
Câu hỏi 1: Đảng và chính phủ đã để ra những biện pháp gì để giải quyết khó khăn về tài chính?
Câu hỏi 2: Kết quả của những biện pháp đó như thế nào?
Câu hỏi 3: Tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân trong việc hỗ trợ Đảng và Chính phủ giải quyết khó khăn về tài chính thể hiện điều gì?
Trên đây là hệ thống câu hỏi mà tôi nêu ra để tạo nên khung của bài học. Trong quá trình sử dụng, tùy theo đối tượng học sinh giáo viên có thể linh hoạt sử dụng có thêm hay bớt cho phù hợp.
 3.3.Nguyên tắc khi sử dụng hệ thống câu hỏi
 Để nâng cao hiệu quả sử dụng câu hỏi cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
  	Một là: Đảm bảo tính chính xác, khoa học. Câu hỏi phải bám sát nội dung chương trình học, có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu. Đó là những câu hỏi nêu được vấn đề cần đặt ra để có thể hiểu đúng, sâu sắc hơn sự kiện. Câu hỏi như vậy đòi hỏi học sinh phải có những thao tác tư duy mới tìm được câu trả lời thích đáng.
Hai là: Đảm bảo tính sư phạm. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, bởi xét đến cùng, mọi phương tiện dạy học dù hiện đại đến đâu thì cũng chỉ có thể phát huy được tác dụng của mình nếu giáo viên có phương pháp sư phạm tốt. Nguyên tắc sư phạm trong sử dụng câu hỏi được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Phù hợp với trình độ học sinh. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi phải đảm bảo tính vừa sức, không quá dễ cũng không quá khó làm giảm hứng thú của học sinh khi học tập. Mỗi giờ giáo viên chỉ sử dụng lượng câu hỏi vừa phải. Các câu hỏi của giáo viên phải tạo thành hệ thống hoàn chỉnh có mối quan hệ lôgic chặt chẽ làm nổi bật chủ đề, nội dung tư tưởng của bài.
- Sử dụng đúng mục đích. Mỗi một loại câu hỏi có một chức năng riêng nên chúng phải được nghiên cứu cụ thể để sử dụng đúng mục đích, phù hợp với yêu cầu bài học.
Ví dụ: Câu hỏi đặt vấn đề khác với câu hỏi cung cấp kiến thức mới, câu hỏi kiểm tra bài cũ, củng cố bài học.
- Sử dụng đúng thời điểm. Giáo viên cần khắc phục tình trạng chưa cung cấp kiến thức lịch sử mà đặt câu hỏi, cách đặt câu hỏi như vậy trái với đặc trưng bộ môn, buộc học sinh nhìn vào SGK để trả lời chứ không hoàn toàn tự suy nghĩ tìm kiến thức. Khi nêu câu hỏi nhất định phải để cho học sinh có thời gian để suy nghĩ để trả lời, học sinh khác có thể bổ sung và tranh luận sau đó giáo viên mới nhận xét, tổng kết lại.
- Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm. Câu hỏi hợp lý, trọng tâm, có ý nghĩa rất quan trọng, nó không những phát huy được tính tích cực, phát triển khả năng tư duy của học sinh; mà còn giúp học sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những kiến thức được tìm hiểu. 
- Lưu ý đến nhiều đối tượng học sinh trong lớp. Trong quá trình dạy học, giáo viên đặt và sử dụng câu hỏi cần phải linh hoạt, tùy theo từng lớp và từng đối tượng học sinh. Cần phải nắm vững đối tượng học sinh, phân biệt được trình độ của các em trong việc học tập bộ môn để từ đó giáo viên điều chỉnh các thao tác sư phạm của mình cho phù hợp với. Khi đặt câu hỏi cần ngắn gọn đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với tư duy của học sinh. Không nên đặt ra những câu hỏi chung chung; những câu hỏi “Đúng” hay “Sai”, “Có” hay “Không”.
- Kết hợp với nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học khác như: Sử dụng hệ thống câu hỏi là một phương pháp nhưng cũng cần có sự kết hợp với các phương pháp khác như sử dụng đồ dùng trực quan, khai thác các nguồn tài liệu khác cùng các thao tác sư phạm hợp lý để vận dụng linh hoạt trong giờ học góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
Ba là:  Đảm bảo tính truyền cảm. Trong quá trình tổ chức dạy học, khi đặt ra câu hỏi người giáo viên cần có ngôn ngữ truyền cảm, có ngữ điệu rõ ràng, có thái độ xúc cảm đối với các sự kiện hiện tượng lịch sử. Giáo viên cũng cần động viên khuyến khích học sinh tích cực trả lời có thể khen ngợi các học sinh tích cực, uốn nắn học sinh thụ động chưa tích cực.
3.4. Kỹ năng sử dụng hệ thống câu hỏi
3.4.1. Phân loại hệ thống câu hỏi
	Theo mục đích, hệ thống câu hỏi trong một bài học lịch sử hiện nay có cách phân chia như sau:
- Câu hỏi kiểm tra bài cũ: mục đích là nhằm giúp học sinh liên hệ, nhớ lại kiến thức cũ đồng thời tạo sự khởi động phấn khởi cho học sinh khi học bài mới.
- Câu hỏi nhằm phát hiện, tái hiện kiến thức: nhằm để cung cấp nội dung bài học.
- Câu hỏi phát triển tư duy: nhằm giúp học sinh rèn luyện thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp Vì những câu hỏi đó chỉ trả lời được khi có sự liên hệ suy luận với những kiến thức đã học.
	- Câu hỏi củng cố: thường là những câu hỏi ở cuối mỗi bài giúp học sinh hệ thống kiến thức trong bài học. Giáo viên tùy theo bài học có thể mở rộng liên hệ thực tiễn hiện nay.
Việc phân loại câu hỏi sẽ giúp cho giáo viên xác định các biện pháp sư phạm để hướng học sinh lĩnh hội kiến thức, bởi mỗi loại câu hỏi thể hiện một nội dung khác nhau thì phương pháp sử dụng cũng khác nhau.
3.4.2. Các bước tiến hành
	Việc sử dụng câu hỏi phải được tiến hành theo các bước sau:
	Bước1: Giáo viên cung cấp kiến thức hoặc gợi nhớ những nội dung lịch sử đã học trước khi tìm hiểu nội dung mới.
	Bước2: Giáo viên đưa ra câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài học.
	Bước 3: Học sinh trình bày, trả lời câu hỏi mà giáo viên đã nêu.
	Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung ý kiến trả lời của học sinh, hoàn thiện nội dung câu hỏi cho học sinh.
 3.5. Sử dụng hệ thống câu hỏi trong tiết 26- bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946” ở lớp 12 chương trình chuẩn.
 3.5.1. Sử dụng câu hỏi nhằm cung cấp nội dung kiến thức của bài học
*Sử dụng câu hỏi ở mục I: Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945
 Câu hỏi 1: Nước ta sau cách mạng tháng Tám phải đối mặt với những khó khăn nào? 
 Câu hỏi này được đưa ra ngay đầu mục 1. Sử dụng câu hỏi này nhằm giúp học sinh hiểu rõ được nước ta bước vào kỉ nguyên mới sau cách mạng thánh Tám thắng lợi, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phải đối mặt với không ít khó khăn thử thách:
 + Chính quyền cách mạng còn non trẻ
 + Quân đội các nước Đồng minh dưới danh nghĩa giải giáp quân đôi Nhật đã lũ lượt kéo vào nước ta. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc là 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc và tay sai thuộc các tổ chức phản động luôn tìm mọi cách để lật đổ chính quyền cách mạng. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều kiện cho quân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Ngoài ra còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ được giải giáp nhưng một bộ phận quân Nhật theo lệnh quân Anh đánh vào lực lượng vũ trang của ta, tạo điều kiện cho quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng.
 Bên cạnh đó, bọn phản động trong nước cũng đã ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng.
 Những khó khăn to lớn đó đặt nước ta vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc, vận mệnh dân tộc bị đe doạ...
 Câu hỏi 2: Bên cạnh những khó khăn to lớn đó, nước ta có những thuận lợi cơ bản nào?
 Câu hỏi này được sử dụng sau khi giáo viên đã giúp học sinh hiểu rõ được những khó khăn, thách thức của nước ta sau cách mạng tháng Tám. Bên cạnh những khó khăn đó, cách mạng nước ta cũng co những thuận lợi cơ bản đó là là nhân dân ta đã giành được độc lập và chính quyền, nhân dân ta đoàn kết, gắn bó với chế độ mới, Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lãnh đạo. 
 Câu hỏi 3: Từ tình hình đó, em hãy cho biết nhiệm vụ trước mắt cần phải giải quyết của Đảng và Chính phủ ta là gì?
 Câu hỏi này được đưa ra sau khi học sinh đã nắm được những thuận lợi và khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945 nhằm giúp học sinh thấy được trong bối cảnh đầy khó khăn thử thách đó, nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết của Đảng và chính phủ lâm thời là phải đề ra những biện pháp đúng đắn nhằm xây dựng chính quyền cách mạng từ TƯ đến địa phương, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính nhằm nhanh chóng ổn định tình hình đất nước, ổn định đời sống nhân dân, tạo nên sức mạnh to lớn của toàn thể dân tộc đủ sức chống lại thù tron

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nuoc_viet_nam_dan_chu_cong_hoa_tu_sau_ngay_2_9_1945_den.doc
  • docBìa SKKN- Sử- Quỳnh Thu.doc