SKKN Những giải pháp giáo dục tích cực để xây dựng tập thể lớp 11B7 trường THPT Bỉm Sơn đoàn kết, giàu lòng thương yêu và thi đua sôi nổi trong học tập và rèn luyện
“Ở nước ta, đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi toàn xã hội. Sự nghiệp giáo dục đang được coi trọng, là quốc sách hàng đầu. Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII đã xác định mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo chủ yếu là “Thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học; hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành”. Trong tình hình chung đó, Nhà trường chúng ta đã xác định: Đổi mới phương pháp giáo dục nhằm phát huy năng lực, tính tích cực học tập cũng như rèn luyện của học sinh là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, song song với việc dạy chữ cho các em chúng ta cần hết sức quan tâm đến việc “Dạy người”. Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh là trách nhiệm của tất cả các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy giáo, cô giáo làm công tác chủ nhiệm trong việc hình thành nhân cách của các em.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT BỈM SƠN --------&-------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: “Những giải pháp giáo dục tích cực để xây dựng tập thể lớp 11B7 trường THPT Bỉm Sơn đoàn kết, giàu lòng thương yêu và thi đua sôi nổi trong học tập và rèn luyện”. Người thực hiện : Nguyễn Lệ Quyên Chức vụ : Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực: Sinh Học THANH HOÁ NĂM 2019 I. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài “Ở nước ta, đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi toàn xã hội. Sự nghiệp giáo dục đang được coi trọng, là quốc sách hàng đầu. Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII đã xác định mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo chủ yếu là “Thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học; hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành”. Trong tình hình chung đó, Nhà trường chúng ta đã xác định: Đổi mới phương pháp giáo dục nhằm phát huy năng lực, tính tích cực học tập cũng như rèn luyện của học sinh là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, song song với việc dạy chữ cho các em chúng ta cần hết sức quan tâm đến việc “Dạy người”. Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh là trách nhiệm của tất cả các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy giáo, cô giáo làm công tác chủ nhiệm trong việc hình thành nhân cách của các em. Giáo viên chủ nhiệm có vị trí vô cùng quan trọng trong trường THPT: Là cầu nối giữa gia đình, nhà trường, xã hội, là người thừa lệnh Hiệu trưởng – BGH quản lý học sinh của một lớp học; là người gần gũi, quan trọng ảnh hưởng tới nhân cách, kết quả giáo dục của học sinh” Tôi đã tham gia một chương trình tập huấn với tên gọi “Sứ mệnh người thầy” tôi thấy từ “Sứ mệnh” thật là đúng, nó thể hiện rõ vai trò của người giáo viên, mà đặc biệt là người giáo viên chủ nhiệm. Tôi nghĩ người giáo viên chủ nhiệm coi học sinh chính là những đứa con ở trường của mình, “người mẹ” cần phải đối xử công bằng, giàu lòng nhân ái và bao dung. Xã hội ngày càng phức tạp, có nhiều nguyên nhân dẫn con người ta bị căng thẳng, stress... vì vậy đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm cần có những giải pháp thật tích cực, tâm lí, và trên hết đối xử với các em lòng thương yêu nhưng phải nghiêm khắc, không phải thương yêu là nuông chiều học sinh. Giữa những lúc khó khăn về phương pháp chủ nhiệm, năm ngoái Bộ Giáo Dục mang đến chuyên đề về Giáo dục kỉ luật tích cực. Tôi nghĩ là rất cần thiết cho mỗi giáo viên. Tôi cũng đã thực hiện nhiều nội dung giống chương trình này, tuy nhiên được học hỏi tôi thấy mình sáng rõ hơn về phương pháp giáo dục tích cực này. Vì vậy, lần này tôi mạnh dạn viết sáng kiến “Những giải pháp giáo dục tích cực để xây dựng tập thể lớp 11B7 trường THPT Bỉm Sơn đoàn kết, giàu lòng thương yêu và thi đua sôi nổi trong học tập và rèn luyện”. 1.2. Mục đích của sáng kiến - Tìm hiểu về giáo dục, phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực. - Tìm hiểu về đặc điểm của học sinh THPT. - Đưa ra những giải pháp giáo dục có hiệu quả đối với học sinh lớp chủ nhiệm. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp chủ nhiệm 10 C7 và năm nay là lớp 11B7. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi. - Phương pháp trải nghiệm: Qua trải nghiệm về trò chơi để từ đó cho học sinh rút ra bài học. - Phương pháp tâm lí. II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến. 2.1.1.* Khái niệm về Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học.[1] Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo dục đại học. Về mặt từ nguyên, "education" trong tiếng Anh có gốc La-tinh ēducātiō ("nuôi dưỡng, nuôi dạy") gồm ēdūcō ("tôi giáo dục, tôi đào tạo"), liên quan đến từ đồng âm ēdūcō ("tôi tiến tới, tôi lấy ra; tôi đứng dậy").[2] Trong tiếng Việt, "giáo" có nghĩa là dạy, "dục" có nghĩa là nuôi (không dùng một mình); "giáo dục" là "dạy dỗ gây nuôi đủ cả trí-dục, đức-dục, thể-dục."[3] Tại Việt Nam, một định nghĩa khác về giáo dục được Giáo sư Hồ Ngọc Đại đưa ra như sau: Giáo dục là một quá trình mà trong đó kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của một người hay một nhóm người này được truyền tải một cách tự nhiên mà không hề áp đặt sang một người hay một nhóm người khác thông qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu để từ đó tìm ra, khuyến khích, định hướng và hỗ trợ mỗi cá nhân phát huy tối đa được ưu điểm và sở thích của bản thân khiến họ trở thành chính mình, qua đó đóng góp được tối đa năng lực cho xã hộitrong khi vẫn thỏa mãn được quan điểm, sở thích và thế mạnh của bản thân. Quyền giáo dục được nhiều chính phủ thừa nhận. Ở cấp độ toàn cầu, Điều 13 của Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (1966) của Liên Hiệp Quốc công nhận quyền giáo dục của tất cả mọi người.[4] Mặc dù ở hầu hết các nước, giáo dục có tính chất bắt buộc cho đến một độ tuổi nhất định, việc đến trường thường không bắt buộc; một số ít các bậc cha mẹ chọn cho con cái học ở nhà, học trực tuyến, hay những hình thức tương tự. 2.1.2* Khái niệm về giáo dục kỉ luật tích cực - Giáo dục kỷ luật tích cực là cách giáo dục dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của học sinh; không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của học sinh; có sự thỏa thuận giữa giáo viên - học sinh và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Cụ thể là: - Những giải pháp/ biện pháp giáo dục mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỉ luật tự giác của học sinh. - Sự thể hiện rõ ràng những mong đợi, quy tắc và giới hạn mà học sinh phải tuân thủ. - Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh. - Dạy cho học sinh những kĩ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời. - Làm tăng sự tự tin và khả năng/ kỹ năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em. - Dạy cho học sinh cách cư xử lịch sự nhã nhặn, không bạo lực, có sự tôn trọng bản thân, biết cảm thông và tôn trọng quyền của người khác. - Động viên, khích lệ thực hiện hành vi, xây dựng sự tự tin, lòng tự trọng và tính trách nhiệm, giúp học sinh phát triển hoàn thiện nhân cách, không làm cho các em bị tổn thương. Giáo dục kỉ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho học sinh tính tự giác tuân theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu dài. Mục tiêu của giáo dục kỉ luật tích cực là dạy học sinh tự hiểu hành vi của mình, có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Nói cách khác giúp học sinh phát triển tư duy và có các hành vi tích cực có thể ảnh hưởng lâu dài đến cả cuộc đời sau này. 2.1.3 Đặc điểm tâm – sinh lý học sinh THPT Để giáo dục học sinh có hiệu quả, giáo viên cần biết rõ đối tượng của mình là ai? Có những đặc điểm về tâm, sinh lý như thế nào? Từ đó chúng ta có phương pháp giáo dục phù hợp với lứa tuổi và với từng cá nhân học sinh. Học sinh THPT đang ở độ tuổi trưởng thành ở giai đoạn đầu của tuổi thanh niên, ở độ tuổi này có những đặc điểm sau: * Về phát triển thể chất Cơ thể của các em đã đạt tới mức phát triển của người trưởng thành, nhưng chưa hoàn thiện so với người lớn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em dễ bị kích động, thích bắt chước, thích thể hiện là người lớn. Sự phát triển thể chất có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách đồng thời nó còn ảnh hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp sau này của các em. * Về phát triển trí tuệ Hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Cảm giác và tri giác của các em đã đạt tới mức độ của người lớn. Khả năng quan sát phát triển, tuy nhiên sự quan sát ở các em thường phân tán, chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất định. Khi quan sát đối tượng còn mang tính đại khái, phiến diện đưa ra kết luận vội vàng ít có cơ sở thực tế. Trí nhớ cũng phát triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các em đã biết sắp xếp lại tài liệu học tập theo một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Khi học bài các em có khả năng khái quát rút ra những ý chính, xác định được trọng tâm của bài học, tuy nhiên một số em còn ghi nhớ đại khái chung chung. Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh. Các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển, giúp các em có thể lĩnh hội các khái niệm phức tạp và trừu tượng. Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản biện để nhận thức chân lý một cách sâu sắc hơn. Thích những vấn đề mang tính triết lý. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề một cách nhạy bén. Tuy nhiên đôi khi kết luận còn vội vàng theo cảm tính. Giáo viên cần tổ chức các hoạt động, tạo điều kiện phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh. Việc phát triển khả năng nhận thức của học sinh trong dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. * Về phát triển nhân cách - Sự tự ý thức Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà còn đặc biệt chú trọng tới phẩm chất bên trong. Các em có khuynh hướng phân tích và đánh giá bản thân mình một cách độc lập mang tính chủ quan. Ý thức làm người lớn khiến các em thích khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến mình Với các đặc điểm đó, người lớn, thầy cô giáo cần phải lắng nghe ý kiến của các em đồng thời cần giúp các em có sự nhìn nhận khách quan về nhân cách của mình, tự nhận thức và xác định được giá trị của bản thân nhằm giúp cho sự tự đánh giá bản thân được đúng đắn hơn, xác định được điểm mạnh, điểm yếu để tự điều chỉnh hoàn thiện bản thân, tránh những suy nghĩ lệch lạc, phiến diện hoặc là quá ảo tưởng hoặc quá tự ty về bản thân dẫn đến các biểu hiện hành vi không tích cực . Sự hình thành thế giới quan Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý tuổi học sinh THPT. Vì các em sắp trở thành người lớn, chuẩn bị bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị về con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu, cái đẹp, cái thiện, cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm Tuy nhiên nhiều học sinh ở độ tuổi này do ảnh hưởng của giáo dục gia đình nên có tư tưởng không lành mạnh như: coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, ý thức tổ chức kỉ luật kém, thích hưởng thụ hoặc thụ động, dựa dẫm vào người khác Những học sinh này dễ trở thành học sinh “cá biệt” trong lớp. Để giúp các em điều chỉnh suy nghĩ tư tưởng lệch lạc, giáo viên phải khéo léo, tế nhị khi phê phán những biểu hiện tư tưởng qua thái độ hành vi chưa đúng đắn của học sinh, giúp các em thay đổi nhận thức, điều chỉnh thái độ hành vi của mình. Giáo viên cần tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư tình cảm, suy nghĩ của học sinh, nguyên nhân của những hành vi không tích cực để giúp các em phát triển đúng hướng. Tuyệt đối không dùng bạo lực (lời nói hay hành động thô bạo làm tổn thương đến các em). * Hoạt động giao tiếp Ở tuổi học sinh THPT các em có nhu cầu sống tự lập, có nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể. Thích được giao lưu, thích tham gia các hoạt động tập thể. Tình bạn đối với các em ở tuổi này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tình bạn thân thiết, chân thành sẽ cho phép các em nhìn nhận, điều chỉnh bản thân. Môt loại tình cảm đặc biệt – tình yêu nam nữ bắt đầu nảy nở. Tuy nhiên tình cảm này chưa được phân định rõ giữa tình yêu và tình bạn. Do vậy, cảm xúc của các em trong giai đoạn này rất phức tạp “thoáng vui”, “thoắt buồn” nên rất dễ ảnh hưởng đến học tập, nhiều em không làm chủ được bản thân dẫn đến học hành sa sút. Tình yêu ở lứa tuổi này nhìn chung là lành mạnh, trong sáng nhưng cũng là một vấn đề rất phức tạp ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh. Giáo viên cần hết sức bình tĩnh coi đây là sự phát triển bình thường và tất yếu trong sự phát triển của con người, tế nhị, khéo léo không nên can thiệp một cách thô bạo như cấm đoán, kiểm điểm phê bình, bêu gương trước lớp sẽ làm tổn thương đến tình cảm và lòng tự trọng của các em. Thầy/cô giáo nên gặp gỡ khuyên nhủ để các em xác định được nhiệm vụ học tập và có thái độ đúng đắn trong quan hệ tình cảm với bạn khác giới. Giúp các em biết kìm chế những cảm xúc của bản thân để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra ảnh hưởng đến học tập và tương lai sau này. Có thể nói tuổi học sinh THPT là thời kỳ đặc biệt quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người. Các em đang đứng trước “ngưỡng cửa cuộc đời”. Giai đoạn này có tính chất quyết định hướng đi của mỗi người “thành công” hay “thất bại”. Giáo viên cần quan tâm, có các biện pháp giáo dục tốt để góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em, đồng thời giúp các em định hướng nghề nghiệp cho tương lai. 2.2. Thực trạng khi chưa áp dụng sáng kiến - Gia đình của một số em trong lớp còn thiếu sự quan tâm, tình yêu thương: Gia đình là cái nôi nâng đỡ các em từ lúc ra đời đến lúc trưởng thành. Tuy vậy, không phải trẻ em nào cũng may mắn được sinh ra và lớn lên trong những gia đình đủ điều kiện về vật chất cũng như tinh thần. Trong lớp tôi, có những em, ngay từ nhỏ đã thiếu tình yêu thương của cha mẹ, có em bị bỏ rơi, thiếu nơi nương tựa, b có em cha mẹ mất sớm hoặc cha mẹ bỏ nhau, cha mẹ bất hòa, bạo lực gia đình Những bất hạnh do thiếu tình thương yêu chăm sóc đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nhân cách của các em. Tuy nhiên không ít các em sinh ra trong các gia đình khá giả nhưng vẫn thiếu tình thương yêu do cha mẹ mải làm ăn nên sao nhãng việc quan tâm chăm sóc con cái. Khi các em có những biểu hiện bất thường thì biện pháp duy nhất là đánh đập, chửi bới, sỉ nhục, không cần biết nguyên nhân, không nghe các em giải thích và biện pháp giáo dục này đã dẫn các em đến các hành vi tiêu cực. Các em mong muốn cha mẹ, người lớn hãy yêu thương con em mình nhiều hơn và hãy giúp chúng vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Nhà trường, các thầy cô giáo và đặc biệt là GVCN đã quan tâm với các em nhưng đôi khi còn nặng theo kỉ luật để các em thực hiện tốt nội quy nhà trường, lớp. Nhà trường là ngôi nhà thứ hai của các em, ở đây các em được sự yêu thương của thầy cô giáo, bạn bè. Tuy vậy, không phải thầy cô nào cũng yêu thương học sinh, quan tâm chăm sóc các em như người thân của mình. Do công việc gia đình quá bận rộn, do áp lực của các chỉ tiêu thi đua, thiếu kinh nghiệm trong xử lý tình huống nên nhiều giáo viên nóng vội dùng các biện pháp xử phạt mạnh, hi vọng học sinh học tập tốt hơn, ít quan tâm đến tâm tư, tình cảm, hoàn cảnh của các em. Nhiều giáo viên đánh giá học sinh dựa trên những biểu hiện hành vi vi phạm kỷ luật mà thiếu sự hiểu biết về hoàn cảnh gia đình, về nguyên nhân dẫn đến những hành vi đó. Các biện pháp kỷ luật như phê bình trước lớp, hạ hạnh kiểm, ghi học bạ, phê bình dưới cờ, đuổi học cũng không phải là những biện pháp giáo dục hiệu quả. Giáo viên cần gần gũi các em, hiểu tâm tư tình cảm, hoàn cảnh gia đình, bằng tình thương yêu để cảm hóa giúp các em tiến bộ. Nhiều học sinh khi đã trưởng thành vẫn không quên tình cảm mà thầy cô đã giúp đỡ mình và ngược lại cũng không ít học sinh mang theo mối hận suốt đời đối với thầy cô giáo. 2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍCH CỰC ÁP DỤNG TRONG LỚP HỌC 11B7 2.3. 1 Nhóm giải pháp giáo dục tư tưởng: Đây là giải pháp quan trọng thay đổi cách cư xử trong lớp học, trong gia đình: Quan trọng vấn đề giáo dục lòng yêu thương đối với ông bà, cha mẹ thông qua các ngày lễ như 20/10, 8/3. Tôi đã tổ chức hoạt động chủ đề: Tình yêu thương của cha mẹ. Tiến trình tổ chức như sau: Thời gian: 45 phút. Mục đích: Các bạn học sinh sẽ hiểu được nỗi lòng của cha mẹ, sự hy sinh của cha mẹ, dù bằng phương pháp nuôi dạy con như thế nào thì cha mẹ vẫn luôn thương yêu và dành cho con những gì tốt đẹp nhất để từ đó hiểu cha mẹ, yêu thương cha mẹ hơn. Bản thân mỗi bạn sẽ cố gắng hơn nữa. Thời gian Tiến trình Chuẩn bị 10 phút Hoạt động 1: Trò chơi đổi vai đổi vai 1 nhóm sẽ đóng vai làm bố mẹ, 1 nhóm sẽ đóng vai làm con. Trong vòng 10’, đội chơi đóng vai bố mẹ phải ghi ra những điều mà bố mẹ mong muốn về những đứa con của mình, đội chơi đóng vai con ghi ra tất cả những điều mong muốn của người con đối với bố mẹ Bài học rút ra: Cha mẹ có rất nhiều điều mong muốn đối với con cái của mình, tất cả chúng ta nếu đứng trên phương diện làm cha mẹ chúng ta cũng muốn những điều đó Giấy A3, bút dạ Hoạt động 2: Chúng ta quan niệm thế nào là bàn tay đẹp? Bước 1: GV lên nói qua về ngày 20.10. Về vẻ đẹp của người phụ nữ có thể về khuôn mặt xinh đẹp, có thể dáng vóc mảnh mai... và hỏi các em: Vậy bạn quan niệm quan niệm thế nào là phụ nữ có bàn tay đẹp? HS: ( Cho các bạn 1 phút suy ngẫm): Sau đó cho các bạn đứng lên chia sẻ ý kiến của mình . Máy tính, máy chiếu, VCD của dự án. 5 phút Bước 2: Xin mời các em xem clip sau ( Đó là clip Vẻ đẹp đôi bàn tay của thầy Thích Tâm Nguyên). Mục đích nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn) https://www.youtube.com/watch?v=XUmxsbskTxU&t=726s 3 phút Bước 3: Tôi Đọc cho hs nghe bài viết Chạm vào bàn tay mẹ 3 phút Bước 4: Tôi nói chuyện Nhấn mạnh sự vô tâm của một số người con, vô tâm chỉ lo cho bản thân mình, vô tâm lo vui vẻ bạn bè, và nhất là một số bạn vô tâm chỉ lo dành tình cảm cho các bạn khác giới. ( Tôi có kể cho các em nghe tình yêu của tôi) Sau đây mời các em nghe một bài thơ. Bước 5: Nghe bài thơ con quên. Từ khóa: Bài thơ con quên. 5 phút Bước 6: Chiếu cho hs xem clip. Từ khóa: Tâm sự của cha mẹ khi về già https://www.youtube.com/watch?v=amY2PKG5a9g Học sinh viết những lời tâm sự gửi bố mẹ, cho vào phong bì để ở đúng vị trí ngồi và ngày mai họp phụ huynh, phụ huynh sẽ n hận được thư của các con. Bút, mẫu giấy viết thư, phong bì thư. II.3.2. Nhóm giải pháp thứ 2: Quan tâm đến hoàn cảnh của học sinh; quan tâm và hiểu biết từng học sinh, thương yêu, bao dung, độ lượng với học sinh. Chủ động lôi cuốn sự tham gia của các em vào các công việc có liên quan của trường, lớp. Tôi luôn thấm nhuần câu nói “ Những gì xuất phát từ trái tim, sẽ đi đến trái tim”, “Giáo dục bằng tình thương yêu là con đường giáo dục ngắn nhất”. Chính vì vậy tôi luôn khích lệ các em tâm sự chuyện gia đình bằng thư tay. ( tôi đã chia sẻ trong sáng kiến 5 năm về trước) Trong hai năm qua tôi đã gửi cho các em 4 bức thư. Một bức thư khi vào học được 2 tháng khi biết được được đặc điểm tính cách của từng em, và một bức cuối năm. Bức thứ hai khi biết lớp tôi có hiện tượng chia bè phái và cô lập một em nam trong lớp trong bức thư tôi cũng không ngại nói lên tình cảm của mình, suy nghĩ thật của mình VD: Cô xin lỗi các em, cô đã không tạo được một tập thể đoàn kết. Cô cảm thấy mình không làm tròn trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm. Khi cô mang đồ ăn sáng đến cho lớp, nhìn tất cả các em chạy ùa lên đón nhận (riêng bạn Tùng – hs bị cô lập) thì ngồi yên và mang trong cặp chiếc bánh mì đã chuẩn bị sẵn, cô cảm thấy tim mình đau nhói. ( những hôm trực tuần quét sân trường thường phải đi rất sớm, tôi sợ các em đói nên thường chuẩn bị đồ ăn cho các em) và trước mặt học sinh – Khi tổ chức buổi nói chuyện này tôi đã khóc, các em
Tài liệu đính kèm:
- skkn_nhung_giai_phap_giao_duc_tich_cuc_de_xay_dung_tap_the_l.docx