SKKN Nâng cao chất lượng dạy các loại tứ giác trong môn Hình học 8 thông qua phương pháp thảo luận nhóm
Sự phát triển xã hội và đổi mới đất nước đòi hỏi cấp bách phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Do đó cần có sự đổi mới về nội dung và đổi mới về phương pháp từ đó nâng cao được chất lượng giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu của phát triển xã hội.
Trong các bộ môn ở THCS môn toán có vai trò rất quan trọng trong giáo dục phổ thông nó góp phần phát triển các năng lực trí tuệ như: óc quan sát, khả năng so sánh, tương tự, khái quát hóa., ngoài ra nó còn rèn luyện tính cẩn thận, tính khoa học tính kỷ luật và còn là công cụ góp phần dạy học các môn học khác. Tuy nhiên do tính trừu tượng, tính logic nên trong thực tế nhiều học sinh rất ngại học toán và đặc biệt là ngại học môn hình học từ đó dẫn đến tình trạng học sinh học yếu hình học và ngại học môn hình học. Nhiều học sinh có tư tưởng “sợ hình” nên không có hứng thú với bộ môn. Do tính trừu tượng cao kiến thức nhiều cùng với các phương pháp dạy học truyền thống không làm cho học sinh có hứng thú, cũng như nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến lí thuyết trừu tượng, chỉ chú trọng khả năng suy luận logic, khả năng chứng minh các bài toán, mà chưa chú tâm đến các vấn đề khác như khả năng quan sát, dự đoán, so sánh. và các liên hệ thực tế của bộ môn hình học nên làm học sinh chán nản không thích hình học.
Để góp phần giải quyết phần nào những khó khăn nói trên, tôi xin trình bày những nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng dạy học các loại tứ giác trong môn hình học 8 thông qua phương pháp thảo luận nhóm” của tôi và xin đề xuất một số biện pháp bước đầu nhằm mục tiêu là góp phần nhỏ bé của mình với đồng nghiệp còn đang trăn trở để tìm ra cho bản thân mình những phương pháp phù hợp trong giờ lên lớp. Chắc chắn những trình bày của tôi không tránh khỏi những thiếu sót do khả năng có hạn của mình. Do đó, tôi xin quý đồng nghiệp góp ý, sửa chữa, bổ sung để cho việc vận dụng phương pháp giảng dạy được tốt hơn.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN ĐỊNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY CÁC LOẠI TỨ GIÁC TRONG MÔN HÌNH HỌC 8 THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM Người thực hiện: Lê Xuân Thường Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường TH và THCS Yên Phú SKKN thuộc lĩnh vực: Toán học YÊN ĐỊNH, NĂM 2017 MỤC LỤC Mục Nội dung Trang Mục lục 1 I. MỞ ĐẦU 2 1. Lí do chọn đề tài. 2 2. Mục đích nghiên cứu. 2 3. Đối tượng nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu. 3 5. Những điểm mới của SKKN 3 II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 4 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 4 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 4 2.1. Thuận lợi 4 2.2. Khó khăn 5 3. Những kinh nghiệm và các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 5 3.1 Phương pháp dạy học thảo luận nhóm 5 3.1.1 Vai trò của giáo viên, nhóm trưởng, các thành viên 5 3.1.2 Những chuẩn bị cần thiết 6 3.1.3 Quá trình thực hiện 6 3.2 Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học các loại tứ giác 10 3.2.1. Dạy học định nghĩa, tính chất. 10 3.2.2. Dạy học dấu hiệu nhận biết. 12 3.2.3. Dạy học cũng cố, vận dụng 13 3.2.4. Dạy học hệ thống bài tập, khai thác, lấp lổ hổng kiến thức 14 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với các hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 15 4.1. Đối với các hoạt động giáo dục; với đồng nghiệp và nhà trường 15 4.2. Số liệu thống kê thực tế 16 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 17 1. Kết luận. 17 1.1. Ưu điểm: 17 1.2. Nhược điểm: 17 1.3. Giải pháp để kích thích quá trình tham gia thảo luận 17 2. Kiến nghị và đề xuất. 17 Tài liệu tham khảo. 20 I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Sự phát triển xã hội và đổi mới đất nước đòi hỏi cấp bách phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Do đó cần có sự đổi mới về nội dung và đổi mới về phương pháp từ đó nâng cao được chất lượng giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu của phát triển xã hội. Trong các bộ môn ở THCS môn toán có vai trò rất quan trọng trong giáo dục phổ thông nó góp phần phát triển các năng lực trí tuệ như: óc quan sát, khả năng so sánh, tương tự, khái quát hóa..., ngoài ra nó còn rèn luyện tính cẩn thận, tính khoa học tính kỷ luật và còn là công cụ góp phần dạy học các môn học khác. Tuy nhiên do tính trừu tượng, tính logic nên trong thực tế nhiều học sinh rất ngại học toán và đặc biệt là ngại học môn hình học từ đó dẫn đến tình trạng học sinh học yếu hình học và ngại học môn hình học. Nhiều học sinh có tư tưởng “sợ hình” nên không có hứng thú với bộ môn. Do tính trừu tượng cao kiến thức nhiều cùng với các phương pháp dạy học truyền thống không làm cho học sinh có hứng thú, cũng như nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến lí thuyết trừu tượng, chỉ chú trọng khả năng suy luận logic, khả năng chứng minh các bài toán, mà chưa chú tâm đến các vấn đề khác như khả năng quan sát, dự đoán, so sánh... và các liên hệ thực tế của bộ môn hình học nên làm học sinh chán nản không thích hình học. Để góp phần giải quyết phần nào những khó khăn nói trên, tôi xin trình bày những nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng dạy học các loại tứ giác trong môn hình học 8 thông qua phương pháp thảo luận nhóm” của tôi và xin đề xuất một số biện pháp bước đầu nhằm mục tiêu là góp phần nhỏ bé của mình với đồng nghiệp còn đang trăn trở để tìm ra cho bản thân mình những phương pháp phù hợp trong giờ lên lớp. Chắc chắn những trình bày của tôi không tránh khỏi những thiếu sót do khả năng có hạn của mình. Do đó, tôi xin quý đồng nghiệp góp ý, sửa chữa, bổ sung để cho việc vận dụng phương pháp giảng dạy được tốt hơn. 2. Mục đích nghiên cứu. Trường THCS mà tôi đang công tác là một trong những trường chưa đạt chuẩn quốc gia, cơ sở vật chất còn thiếu thốn nhiều, việc học của học sinh ít được quan tâm và đầu tư nên chất lượng còn thấp chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển nhân tài chung của xã hội. Mỗi giáo viên lại có cách dạy riêng, có nhiều biện pháp khác nhau trong dạy học bộ môn Toán để nâng cao chất lượng bộ môn. Vì thế, trong quá trình dạy học và qua dự giờ đồng nghiệp bản thân đã áp dụng một số phương pháp dạy học trong đó có phương pháp thảo luận nhóm của học sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Toán của nhà trường. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh khối 8 bậc THCS- GV, các loại tứ giác trong hình học 8. 4. Phương pháp nghiên cứu. - Để thực hiện đề tài này, tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu về “mô hình trường học mới VNEN”. Ở những trường đang áp dụng mô hình này thì học sinh sẽ không học thụ động mà bắt buộc phải có sự trao đổi, tư duy với giáo viên và các bạn cùng lớp theo từng nhóm nhỏ; từ đó nâng cao hiệu quả tiếp nhận đối với học sinh. - Ngoài ra, tôi đã trực tiếp dự giờ và phỏng vấn giáo viên cũng như học sinh về phương pháp thảo luận nhóm mà các trường này đang áp dụng. 5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm. Từ năm học 2010-2011 trước tình trạng học sinh học sinh học yếu hình và “sợ hình” tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra đề tài “một số kinh nghiệm dạy chương tứ giác” vào giảng dạy ở trường THCS, từ đó đã góp phần nâng cao được chất lượng bộ môn. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy tôi thấy một số học sinh còn chưa nhiệt tình, chưa hào hứng tham gia học tập, một số học sinh yếu còn ỷ lại chưa chịu học, một số học sinh khá giỏi chưa được tạo điều kiện để phát triển các năng lực tư duy, học sinh chưa giúp đỡ được nhau trong học tập, không khí học tập còn chưa sôi nổi, để khắc phục các nhược điểm trên những năm gần đây tôi đã nghiên cứu thêm và đưa ra ý tưởng đưa phương pháp “thảo luận nhóm” vào dạy học các loại tứ giác. Do đó những nhược điểm trên đã được khắc phục phần nào, các em hào hứng tham gia học tập, không khí lớp học sôi nổi, các em được tạo điều kiện để phát triển, và giúp đỡ nhau từ đó tình bạn được gắn kết. II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. - Phương pháp thảo luận nhóm được hình thành từ môi trường đại học của nhiều nước tiên tiến trong đầu thập niên 70 của thế kỉ trước. Dần dần, phương pháp làm việc theo nhóm nhỏ được áp dụng rộng rãi như ngày nay. - Khi thay sách giáo khoa lớp 6 (năm 2001) phương pháp thảo luận nhóm được giới thiệu và bồi dưỡng cho giáo viên THCS. - Trong số các phương pháp dạy học đang sử dụng, phương pháp thảo luận nhóm có nhiều ưu thế trong thực hiện mục tiêu giáo dục hiện nay, tránh được lối học thụ động trên lớp, giáo viên thường đưa ra nhiều biện pháp để kích thích khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh. - Có thể nói, mô hình thảo luận nhóm sẽ giúp cho học sinh cố gắng tìm hiểu và phát biểu trong nhóm của mình để trình bày cho cả lớp, đồng thời tinh thần hợp tác trong nhóm sẽ được phát huy và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm. - Trong khi thảo luận nhóm, việc giao lưu giữa các học sinh đương nhiên diễn ra. Thông thường thì trong một nhóm trình độ học sinh đồng đều, đây cũng chính là cơ hội để cho học sinh học tập lẫn nhau (học thầy không tày học bạn) và khi được thầy cô tổng kết, giải đáp học sinh sẽ hiểu bài hơn, nhớ lâu hơn và việc học mang lại kết quả học tập tốt hơn. Như vậy, phương pháp thảo luận nhóm một mặt vừa phát triển tư duy tích cực cao, tính chủ động của học sinh; mặt khác lại chú trọng sự phối hợp, hợp tác cao giữa các học sinh trong quá trình học tập, cần kết hợp năng lực cạnh tranh và năng lực hợp tác ở học sinh. Để sử dụng có hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm, giáo viên cần phải chú trọng xây dựng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhóm, xây dựng vị thế của mỗi thành viên trong một nhóm, mỗi nhóm trong một lớp, hình thành kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Thuận lợi - Hiện nay, ở nước ta đang áp dụng “mô hình trường học mới VNEN” – mô hình mà phương pháp thảo luận nhóm đóng vai trò chủ đạo. Do đó việc áp dụng đề tài này là rất phù hợp với việc đổi mới phương pháp giáo dục. - Chương trình môn toán bậc trung học cơ sở (THCS) có nhiều nội dung không những phù hợp với phương pháp thảo luận nhóm mà còn phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm. - Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động thảo luận: Bảng phụ, chổ ngồi cho học sinh, - Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh có điều kiện thuận lợi tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau một cách dễ dàng và hiệu quả. - Phương pháp thảo luận nhóm phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực. 2.2. Khó khăn - Đây là phương pháp dạy mới áp dụng gần đây nên học sinh không tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng, nội dung kiến thức, - Nội dung kiến thức môn Toán bậc THCS khó, khô khan, đặc biệt là nhiều khái niệm mới ở môn hình học lớp 8, nên giáo viên còn gặp nhiều khó khăn bởi vì học sinh còn lúng túng chưa quen với phương pháp này. - Là phương pháp đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm. - Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng học sinh. - Năng lực học sinh không đồng đều nên đôi khi việc thảo luận nhóm mang tính máy móc và có hiệu quả chưa cao. 3. Những kinh nghiệm và các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 3.1 Phương pháp dạy học thảo luận nhóm Phương pháp dạy học thảo luận nhóm hay còn gọi là hợp tác nhóm hay PPDH hợp tác là một PPDH mà "học sinh được phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nghiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung". Ưu điểm: Giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau; cùng nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung Nhược điểm: Nếu sử dụng không khéo thì thảo luận nhóm cũng có rất nhiều nhược điểm như: mất nhiều thời gian vào một vấn đề, một số thành viên ỷ lại không hoạt động, hay lợi dụng thảo luận nhóm để làm việc riêng. Đê thảo luận nhóm có hiệu quả trước hết chúng ta phải xác định được vai trò của giáo viên, nhóm trưởng, các thành viên trong nhóm. 3.1.1 Vai trò của giáo viên, nhóm trưởng và các thành viên: +Vai trò của giáo viên - Khi học sinh tiến hành thảo luận, giáo viên chuẩn bị từ vị trí người hướng dẫn sang vị trí người giám sát. - Quan sát để xem có những học sinh nào “đứng bên lề” hoạt động hay không? nếu có giáo viên phải đưa các em vào không khí chung của nhóm. - Khen ngợi, khuyến khích và gợi ý nếu thật sự cần thiết. - Nhắc thời gian để các nhóm hoàn thành phần hoạt động của mình đúng thời gian quy định. + Vai trò của nhóm trưởng - Phải có khả năng tổ chức, phân công nhiệm vụ cho các nhóm viên, bố trí chỗ ngồi cho phù hợp, hướng dẫn nhóm thảo luận đúng với nội dung đã giao. - Phải biết linh hoạt, nhạy bén, có khả năng điều động tất cả các thành viên trong nhóm tham gia tích cực vào thảo luận; theo dõi, quan sát từng ngưòi để có biện pháp điều chỉnh kíp thời; lắng nghe ý kiến đóng góp thảo luận của các nhóm viên, động viên khuyến khích những bạn ít nói, rụt rè phát huy tính năng động, sáng tạo của các bạn trong nhóm. - Tổ chức nhóm hoạt động có hiệu quả khi giáo viên không có mặt. - Như vậy, vai trò của nhóm trưởng là rất quan trọng vì vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên cần phải quan sát thái độ và cách làm việc của từng học sinh để lựa chọn các nhóm trưởng cho thích hợp. Tuy nhiên, nhóm trưởng không phải là ngưòi quyết định hết tất cả cho buổi thảo luận. Vai trò của các thành viên còn lại. - Tiến hành hoạt động theo sự hướng dẫn của giáo viên, phân công của nhóm trưởng. - Đưa ra các ý kiến của mình để thảo luận nhóm. 3.1.2 . Những chuẩn bị cần thiết Phương pháp thảo luận nhóm thành công hay không còn tuỳ thuộc vào sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh. Nếu giáo viên chuẩn bị tốt, dự kiến được tình huống xảy ra và có những biện pháp xứ lí kịp thời cũng như có sự hợp tác từ học sinh thì phương pháp thảo luận nhóm sẽ mang lại kết quả cao. Dựa vào mục tiêu nội dung bài học giáo viên có thể xem xét xem có thể hoạt động nhóm được không? Chia theo cách nào? Cần chuẩn bị những gì để nhóm hoạt động có hiệu quả? Dự đoán những tình huống có thể xãy ra, và quan trọng hơn là "học sinh thu được lợi ích gì từ hoạt động này" Về phí học sinh cần chuẩn bị tốt những gì mà giáo viên yêu cầu: như chuân bị bài củ, kiến thức thực tế liên quan và đồ dùng cần thiết nếu 3.1.3 Quá trình thực hiện Khi sử dụng PPDH này, lớp học được chia thành những nhóm từ 4 đến 6 người. Tùy mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định, được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học, các nhóm được giao nhiệm vụ giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề chung. Để thực hiện việc dạy học thảo luận nhóm ta có thể tiến hành qua 3 bước: Bước 1: Làm việc chung, chia nhóm Bước 2. Làm việc theo nhóm Bước 3. Đánh giá kết quả nhóm thảo luận và tổng kết trước toàn lớp. Căn cứ vào mục tiêu bài học, đặc điểm lớp học, và các điều kiện cụ thể mà ta có thể chia nhóm cho hợp lí, với mổi cách chia ta hướng dẫn học sinh hoạt động cho phù hợp, và có cách đánh giá phù hợp nhằm phát huy được ưu điểm và hạn chế các nhược điểm của thảo luận nhóm. Có rất nhiều cách chia nhóm, do khuôn khổ của đề tài tôi xin trình bày một số cách chia mà tôi đã áp dụng tại trường THCS mà tôi đang dạy. Dựa vào năng lực học sinh, ta có thể chia nhóm thành hai cách: Cách 1: Chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ sao cho mổi nhóm có đầy đủ các mức năng lực tư duy. Đây là cách chia nhóm mà tôi sử dụng nhiều nhất nó ổn định trong suốt buổi dạy, mổi nhóm từ 4 đến 6 học sinh dựa trên nguyên tắc "hỗ trợ nhau" nên trong nhóm phải có cả học sinh học tốt và học sinh học trung bình, yếu. Nó phù hợp khi dạy những nội dung cơ bản theo yêu cầu của chuẩn kiến thức kỷ năng, phù hợp với việc “thảo luận cùng một nội dung”. Ưu điểm : Là cách chia nhóm dễ làm phù hợp cho việc giảng dạy nhiều nội dung cơ bản, hoạt đông trên nguyên tắc "hỗ trợ nhau" nên nó tạo điều kiện cho học sinh giúp đở lẫn nhau trong học tập, từ đó giúp học sinh dễ hiểu bài, tăng cường tình bạn, tình đoàn kết. - Với cách chia nhóm này và với việc cùng thảo luận một nội dung tôi thấy tất cả các học sinh đều tập trung vào một vấn đề nên khi đánh giá nhóm nó thu hút được tất cả cả học sinh tập trung cao độ và tạo sự công bằng trong thi đua giữa các nhóm. Nhược điểm: - Theo cách này thì một số thành viên học chưa tốt thường ỷ lại không mạnh dạn đưa ra các ý kiến, và khi trình bày kết quả trong nhóm thường cử thành viên học tốt trình bày kết quả thảo luận nhóm. Những điểm lưu ý Là cách chia nhóm có rất nhiều ưu điểm nên ta cần phát huy tất cả các ưu điểm này và khắc phục các hạn chế của nó. - Với bản tôi để khắc phục những hạn chế này khi chia nhóm dựa trên năng lực học sinh tôi đánh số thứ tự các thành viên trong nhóm theo năng lực: số 1 học sinh có năng lực tốt nhất theo theo số 2 cho đến hết. -Sau đó trong bước hoạt động nhóm, khi hướng dẫn học sinh thảo luận tôi yêu cầu những thành viên có năng lực yếu hơn đưa ra ý kiến trước sau đó các thành viên có năng lực tốt bổ sung góp ý và hướng dẫn những vấn đề mà còn sai hoặc còn thiếu. - Khi trình bày kết quả thảo luận: Tùy theo nội dung bài học và mục đích của hoạt động nhóm tôi chó thể cho học sinh trình bày kết quả thảo luận bằng hai cách: Cách 1: Tổ cử một đại diện trình bày lại kết quả thảo luận dưới dạng ngôn ngữ nói hoặc viết lại. Để khắc phục sự ỷ lại của học sinh yếu và khuyến khích học sinh khá giỏi hướng dẫn học sinh yếu trong nhóm tôi sẽ yêu cầu một thành viên trong nhóm trình bày dựa trên nguyên tắc "lấy ngẫu nhiên một thành viên bất kì trong nhóm” (dựa vào số ngẫu nhiên trong máy tính). Với cách làm này học sinh yếu kém bắt buộc phải hoạt động mới tiếp thu được bài, từ đó mới trình bày được kết quả, học sinh khá giỏi phải tích cực hướng dẫn cho bạn để đảm bảo lợi ích nhóm, đồng thời từ đó cũng cố kiến thức cho mình. Tuy nhiên theo cách làm này khi đánh giá cho điểm nếu chọn theo nguyên tắc ngẫu nhiên mà rơi vào những bạn có năng lực yếu thì thường không trình bày hết được kiến thức và kết quả không thể cao bằng những học sinh khá giỏi trình bày bày từ đó tạo nên tính tự ti đối với học sinh học yếu và sự không hài lòng đối với học sinh học tốt. Để khác phục tôi đưa ra giải pháp cộng điểm theo số thứ tự cho những học sinh học yếu nếu điểm dưới 10. Ví dụ : thành viên số 1 cộng 0,5; số 2 cộng 1 điêm; số 3 cộng 1,5 ... Trong thực tế khi tiến hành theo cách này có nhiều học sinh yếu đã đem lại điểm cao cho toàn nhóm và từ đó các em thấy mình có giá trị trong nhóm, không còn tự ti từ đó mạnh dạn và cố gắng học tập. Các thành viên khá giỏi không xem thường học sinh yếu nữa mà ra sức giúp đở để đem lại lợi ích cao cho nhóm. Sau khi đánh giá song một nhóm giáo viên có thể cho các nhóm khác nhận xét, cuối cùng chốt lại nội dung quan trọng của hoạt động. + Cách 2: Trình bày dưới dạng hoàn thành phiếu hoặc viết ra giấy. Với cách làm này sau khi các nhóm thảo luận song tôi sẽ chọn bài của một nhóm ra để hướng dẫn lại và làm bài mẫu, hoặc dùng máy chiếu, bảng phụ đưa ra bài mẫu, đồng thời yêu cầu các nhóm đổi chéo bài cho nhau hướng dẫn các nhóm tự đánh giá lẫn nhau dựa trên bài trình bày mẫu. Với cách làm này kết quả hoạt động của các em được đánh giá ngay tại lớp nên nó giúp giáo viên đánh giá được hoạt động của tất cả các nhóm từ đó có điều chỉnh cho phù hợp. Cũng trong cách làm này học sinh được, đánh giá lẫn nhau do đó nó giúp học sinh vững kiến thức hơn và rèn luyện khả năng đánh giá bài. Trong cách làm này giáo viên lưu ý trợ giúp các nhóm (nếu cần) trong việc đánh giá các cách làm khác so với bài mẫu. và giải đáp thắc mắc của các nhóm. - Sau khi đánh giá song giáo viên chốt lại nội dung cần nhớ. Chú ý: Với cách chia này, trong thực tế giảng dạy tôi thấy do kiến thức còn nặng, một số giáo viên còn “tham kiến thức” nên thường áp dụng cách chia này sau đó “giao cho mổi nhóm thảo luận mổi nội dung khác nhau, hoặc mổi nhóm thảo luận một khâu trong nội dung”. Với cách làm này tuy tiết kiệm được thời gian giảng dạy nhưng do các nhóm thảo luận các nội dung khác nhau nên khi kết luận thường không tập trung được học sinh, học sinh bị phân tán không thể hiểu sâu được những vấn đề mà nhóm mình không nghiên cứu thảo luận, hoặc đôi khi chỉ hiểu được một khâu trong nôi dung bài học mà toàn bộ các khâu các kiến thức này theo mục tiêu mình cần phải nắm được. Đồng thời trong cáh làm này cũng không tạo được sự thi đua công bằng giữa các nhóm (vì nhóm làm yêu cầu dễ nhóm lại phải làm yêu cầu khó). Cách 2: Chia nhóm theo năng lực học sinh riêng biệt. Cách chia này phù hợp với khi muốn “khai thác” thêm kiến thức, hay “lấp lổ hổng” kiến thức cho học sinh yếu, và phù hợp với phần cũng cố, phần khai thác và luyện tập. Ưu điểm Cùng một lúc đưa ra được nhiều kiến thức cho nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt nó giúp giáo viên “khai thác” kiến thức nâng cao hay “lấp lỗ” những kiến thức còn hổng cho học sinh yếu, mà vẫn có thời gian đảm bảo kiến thức cho học sinh khác theo chuẩn kiến thức kỷ năng. Nhược điểm Học sinh không cùng tập trung vào một vấn đề nên đánh giá mất nhiều thời gian và khó khăn hơn. Một số nhóm yếu kém chỉ làm những bài tập để lấp lỗ hổng kiến thức nên các em có phần nào tự ái, tự ti so với bạn bè. Những điểm cần lưu ý: - Số lượng học sinh có học lực trung bình và khá vẫn chiếm phần lớn nên số học này sẽ chia đều theo các nhóm (nhóm cơ bản) và giao nhiệm vụ cho các em thảo luận theo kiến thức cơ bản, một bộ phận khác năng lực yếu hơn thì chia thành một nhóm (nhóm lấp lỗ hổng) và giao nhiệm vụ cho các em thảo luận nhằm mục đích lấp lổ h
Tài liệu đính kèm:
- skkn_nang_cao_chat_luong_day_cac_loai_tu_giac_trong_mon_hinh.doc