SKKN Một số phương pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh THPT thông qua hoạt động khởi động

SKKN Một số phương pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh THPT thông qua hoạt động khởi động

Từ xưa đến nay, sự phát triển của xã hội, của con người về mọi mặt từ vật chất đến tinh thần, đều không thể thiếu vai trò của giáo dục. Giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy xã hội tiến lên. Vijaya Lakshmi Pandit đã nói :

Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái Chân và thực hành cái Thiện.[1]

 Giáo dục là môt lĩnh vực vô cùng rộng lớn bao gồm giáo dục nhân cách làm người, làm cho con người chúng ta nhận thức được cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, cái chính, cái tà để từ đó chúng ta sống một cuộc sống thật sự có ý nghĩa, hợp với đạo lí làm người, góp phần làm cho cuộc sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Môn Ngữ Văn trong nhà trường chính là một trong những bộ môn quan trong để thực hiện và hoàn thành sứ mệnh đó .Thế nhưng, một thực trạng đáng lo ngại đó là học sinh hiện nay yêu thích và theo đuổi môn Văn rất ít. Một phần vì môn Văn là bộ môn duy nhất thi theo hình thức tự luận buộc học sinh phải đọc nhiều và phải có kĩ năng diễn đạt . Mặt khác, một số em dù rất thích môn Văn nhưng không phải em nào cũng tiếp thu dễ dàng. Học sinh có năng khiếu về môn Văn rất hạn chế. Vậy nguyên nhân xuất phát từ đâu? Từ học sinh ? Hay từ đặc thù môn học ? Hay do chính người truyền đạt, chưa thắp được ngọn lửa đam mê, chưa khơi dậy được ngọn lửa cho tâm các em ?

 

docx 30 trang thuychi01 65985
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số phương pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh THPT thông qua hoạt động khởi động", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 3
***************
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG”.
 Người thực hiện : Vũ Thị Thuỳ
 Chức vụ: Giáo viên
	 SKKK thuộc môn :Ngữ Văn
 THANH HÓA,NĂM 2018
MỤC LỤC
----–&—----
MỤC
NỘI DUNG
TRANG
I
MỞ ĐẦU
1
1
Lí do chọn đề tài 
1
2
Mục đích nghiên cứu 
2
3
Đối tượng nghiên cứu 
3
4
Phương pháp nghiên cứu
3
II
NỘI DUNG SÁNG KIẾN 
3
1
Cơ sở lí luận 
3
2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
6
3
 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 
9
4
Hiệu quả thực hiện 
16
III
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 
17
1
Kết luận 
17
2
Kiến nghị 
18
I. MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài :
  Từ xưa đến nay, sự phát triển của xã hội, của con người về mọi mặt từ vật chất đến tinh thần, đều không thể thiếu vai trò của giáo dục. Giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy xã hội tiến lên. Vijaya Lakshmi Pandit đã nói :
Mục tiêu của giáo dục không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái Chân và thực hành cái Thiện.[1]
 Giáo dục là môt lĩnh vực vô cùng rộng lớn bao gồm giáo dục nhân cách làm người, làm cho con người chúng ta nhận thức được cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, cái chính, cái tà để từ đó chúng ta sống một cuộc sống thật sự có ý nghĩa, hợp với đạo lí làm người, góp phần làm cho cuộc sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Môn Ngữ Văn trong nhà trường chính là một trong những bộ môn quan trong để thực hiện và hoàn thành sứ mệnh đó .Thế nhưng, một thực trạng đáng lo ngại đó là học sinh hiện nay yêu thích và theo đuổi môn Văn rất ít. Một phần vì môn Văn là bộ môn duy nhất thi theo hình thức tự luận buộc học sinh phải đọc nhiều và phải có kĩ năng diễn đạt . Mặt khác, một số em dù rất thích môn Văn nhưng không phải em nào cũng tiếp thu dễ dàng. Học sinh có năng khiếu về môn Văn rất hạn chế. Vậy nguyên nhân xuất phát từ đâu? Từ học sinh ? Hay từ đặc thù môn học ? Hay do chính người truyền đạt, chưa thắp được ngọn lửa đam mê, chưa khơi dậy được ngọn lửa cho tâm các em ?
	Ngày nay, .phương pháp đổi mới dạy -học văn đã được chú trọng nhằm phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Vậy nên, người dạy không chỉ cần nắm được kiến thức trọng tâm, cần nghiên cứu, chuẩn bị bài thật chu đáo trước khi lên lớp mà còn phải hiểu được đặc điểm đặc thù của đối tượng lớp học. Bản thân tôi thiết nghĩ, trong cuộc sống cũng như trong dạy học bước khởi đầu của một tiết học sẽ tạo tiền đề vững chắc, là yếu tố tiên quyết đảm bảo cho tiến trình dạy học được “đầu xuôi đuôi lọt”.	
Mục đích của hoạt động Khởi động là dẫn vào bài học, nối liền bài cũ với bài mới, gợi ý cho học sinh, kích thích hứng thú, làm rõ mục đích, tạo được không khí học tập tích cực, sôi nổi ở học sinh. Khổng Tử đã từng nói “ Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui mà học”[2]. Từ nội dung của câu nói và thực tế giảng dạy, ta thấy niềm vui và sự ham thích sẽ là một động lực lớn giúp học sinh vượt qua khó khăn để vươn lên trong học tập. Có thể nói hoạt động Khởi động có vai trò như trải nệm để dẫn dắt học sinh nhận thức tác phẩm văn học một cách hứng thú, say mê.
 Hoạt động Khởi động chỉ là khâu nhỏ, không nằm trong trọng tâm bài dạy, nhưng lại ở vào vị trí mở đầu, có tác dụng đặt nền móng và gắn bó với các hoạt động còn lại. Vậy nên, người dạy không thể bỏ qua. Xuất phát từ những lí do mang tính thiết thực đó, trong phạm vi của một sáng kiến, tôi xin đề cập đến đề tài “Một số phương pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ Văn cho học sinh THPT thông qua hoạt động Khởi động” .
 2. Mục đích nghiên cứu 
 Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là đề xuất một số phương pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ Văn cho học sinh THPT thông qua hoạt động Khởi động. Mặt khác , tôi cũng mong thông qua đề tài này sẽ tạo ra được sự tương tác giữa người dạy và người học một cách tích cực, kích thích trí tò mò, thức dậy niềm đam mê học hỏi từ học sinh , tạo được không khí sôi nổi cho tiết học ngay từ đầu. Từ đó, định hình kiến thức và thu hút học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động tiếp theo.
 3. Đối tượng nghiên cứu 
 Tìm hiểu về Hoạt động khởi động và một số phương pháp Khởi động để tạo hứng thú học tập trong giờ dạy-học môn Ngữ Văn ở trường THPT Hậu Lộc 3- Huyện Hậu Lộc – Thanh Hoá.
 4. Phương pháp nghiên cứu :
-Phương pháp đối chứng .
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
-Phương pháp kiểm tra. 
 II. PHẦN NỘI DUNG. 
1.Cơ sở lí luận :
 1.1. Luật Giáo dục Điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, hứng thú có hai nghĩa, đó là “Biểu hiện của một nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo ra khoái cảm, thích thú và huy động sinh lực để cố gắng thực hiện” và “hứng thú là sự ham thích “ [3].Qua khái niệm trên ta thấy rằng: hứng thú có nghĩa là tâm trạng vui vẻ, thích thú, hào hứng của con người đối với một hoạt động nào đó.
Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ thành công và thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú còn chính là động lực thúc đẩy hoạt động của con người đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức mà không dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, nó đòi hỏi con người phải hoạt động tích cực, chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo. 
 “Chúng ta không thể dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó”[4] .
Vì thế, nếu giáo viên khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập giúp các em vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, khi đó các em sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép buộc,... 
 Khi hứng thú học tập, trong tiết học các học sinh sẽ:
 - Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra.
 - Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ ràng.
 - Chủ động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học.
 - Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn..
 Khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi đua học tập sôi nổi, tích cực, say mê nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi...đây chính là một trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng và chúng tôi tin rằng quá trình dạy học nhất định sẽ đạt được kết quả cao.
 “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.”[5]
 Tóm lại, hứng thú là một phương tiện dạy học có hiệu quả. Và người giữ vai trò quyết định tạo ra hứng thú trong quá trình dạy học không ai khác chính là người thầy. 
 “Một ông thầy mà không dạy cho trò được việc ham muốn học tập thì chỉ là đạp búa trên sắt nguội mà thôi”[6] 
1.2.Khái niệm Khởi động
Là hoạt động đầu giờ giúp các em hứng thú bước vào tiết học mới hoặc thông qua hoạt động khởi động để ôn lại những kiến thức cũ có liên quan đến nội dung bài học mới.
 Khởi động còn gọi là Lời mở đầu, là một phương thức dẫn dắt học sinh một cách có ý thức , có mục đích đi vào tri thức mới, là khâu mở đường , bắt đầu của dạy học trên lớp.
	Khi có được sự khởi động con người đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức mà không dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, nó đòi hỏi con người phải hoạt động tích cực, chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo. 
1.2.1.Vai trò của Khởi động .
Khởi động trong quá trình dạy học của bất kì phân môn nào, đặc biệt môn Ngữ Văn sẽ thức dậy lòng ham muốn đi tìm chân lí và hứng thú học tập của học sinh. Xét lâu dài, khởi động còn có vai trò bồi dưỡng tinh thần tự giác học tập cho học sinh, kích thích trì tò mò và khả năng học hỏi . Dạy học là một quá trình, nó bắt đầu từ khâu thiết kế , biên soạn và lên lớp. Trong đó phần Khởi động nếu biên soạn kĩ càng sẽ có vai trò rất lớnđối với mỗi tiết học:
-Vai trò mở đường cho tiến trình dạy học
-Vai trò khái quát nội dung bài dạy.
-Vai trò định hướng học sinh tiếp cận văn bản.
 Tóm lại,hoạt động Khởi động trong dạy - học Văn như khúc dạo đầu của một bản nhạc. Nó sẽ có tác dụng chỉ huy, phát hiệu lệnh và thức dậy niềm đam mê học hỏi,tạo tâm thế thoải mái để hướng đến các hoạt động tiếp theo. 1.2.2.Yêu cầu đối với phương pháp Khởi động .
Thời gian lên lớp chỉ gói gọn trong vòng 45 phút, nên khi soạn giảng cũng như tiến trình lên lớp người dạy không được “rộng rãi”, và công phu ở bước này. Thông thường, người dạy chỉ giành khoảng 5 phút để khởi động vào bài mới (bằng nhiều cách). Vậy nên, yêu cầu đầu tiên của hoạt động Khởi động là cần ngắn gọn, súc tích, khái quát cao, lời gọn ý sâu, lấy ít dẫn nhiều chứ không dài dòng, tùy tiện. Nội dung Hoạt động Khởi động cần khái quát, cô động nhưng phải phong phú. Về ngôn ngữ thì cần trong sáng, tinh tế, súc tích. 
Thứ hai, tùy vào từng bài dạy mà giáo viên có thể vận dụng và chú ý từng yêu cầu riêng. Trong đó, có những yêu cầu sau mà người dạy cần lưu ý:
- Làm nổi bật tính mũi nhọn của bài dạy. 
- Làm nổi bật tính quan hệ giữa các phần, giữa nội dung bài học.
- Làm nổi bật tính thú vị mang tính nghệ thuật của hoạt động dạy học.
- Làm nổi bật tính đơn giản, dẽ hiểu của ngôn ngữ.
- Làm nổi bật tính khái quát tập trung, nâng cao gợi ý.
Từ đó , có thể thấy Hoạt động Khởi động đòi hỏi người dạy không được máy móc, khô khan mà phải linh động, kết hợp nhiều phương pháp sinh động, nhiều ý tưởng sáng tạo.Qua hoạt động này để tạo cuốn hút cho học sinh ngay từ đầu tiết học. Như vậy, người giáo viên sẽ truyền được cảm hứng , định hướng bài học ngay từ những phút đầu tiên .
 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm .
2.1. Theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, tiến trình hoạt động theo mô hình trường học mới Việt Nam bao gồm 5 bước. Quy trình này được vận dụng vào mỗi bài học hoặc một chủ đề , cụ thể gồm các hoạt động : 
-Hoạt động khởi động: Hoạt động này giúp học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có lien quan đến bài học mới .
- Hoạt động hình thành kiến thức mới: Hoạt động này giúp học sinh tìm hiểu nội dung kiến thức của chủ đề, rèn luyện năng lực cảm nhận, cung cấp cho học sinh cơ sở khoa học của những kiến thức được đề cập đến trong chủ đề .
- Hoạt động luyện tập: Hoạt động này yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa tiếp thu được ở hoạt động 2 để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể , qua đó giúp giáo viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm ở mức độ nào.
- Hoạt động vận dụng: Hoạt động này nhằm tạo cơ hội cho học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng,thể nghiệm giá trị đã đượchọc vào trong cuộc sống thực tiễn ở gia đình, nhà trường và cộng đồng .
-Hoạt động tìm tòi mở rộng: Hoạt động này khuyến khích học sinh tiếp tục tìm hiểu them để mở rộng kiến thức, nhằm giúp học sinh hiểu rằng ngoài kiến thức đã học trong nhà trường còn rất nhiều điều cần phải tiếp tục học hỏi, khám phá .
 Trong các hoạt động đó, có thể thấy hoạt động Khởi động là hoạt động đầu tiên tạo tâm thế và góp phần nâng cao hiệu quả giờ học .
2.2.Trong quá trình lên lớp, mỗi giáo viên đều chuẩn bị kĩ lưỡng công phu cho bài soạn, giáo án đã chuẩn bị kĩ lưỡng ,thiết kế các khâu lên lớp đã khoa học nhưng vẫn băn khoăn làm sao gây cuốn hút cho tiết dạy ngay từ khi bước vào bài giảng lại là vấn đề gian nan không phải giờ học nào cũng thành công được. Thông thường, trong tiết dạy truyền thống, phần Khởi động chính là phần kiểm tra bài cũ. Giáo viên gọi 01 đến 02 học sinh lên bảng trong khoảng thời gian 5 phút, trả lời câu hỏi liên quan đến kiến thức bài học trước,sau đó, giáo viên dẫn vào bài mới. Tôi đã từng rất nhiều lần dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp, bản thân tôi thấy làm như thế rất nhàm chán, hiệu quả không cao bởi chỉ kiểm tra được số ít học sinh lên bảng (khoảng 2,3 học sinh ).Số học sinh ở dưới lớp không tập trung , thậm chí có những em chưa học bài cũ cứ cuối gằm mặt xuống vì sợ bị gọi lên bảng . Có những học sinh đã học thuộc bài cũ nhưng khi giáo viên gọi lên bảng, do tâm lí căng thẳng, chịu áp lực của điểm số nên lại quên mất không trả lời được. Thực tế đó làm cho không khí lớp học nặng nề, sự hứng thú trong học tập dường như bị ngủ quên.
2.3. Trường THPT Hậu lộc 3 thuộc sáu xã vùng đồi của Huyện nhà, chất lượng đầu vào nhìn chung khá thấp so với mặt bằng chung của các trường trong Huyện Hậu Lộc. Vì vậy khi học các môn trong nhà trường, các em đã cố gắng song việc lĩnh hội còn nhiều hạn chế . Với riêng bộ môn Ngữ văn, do đặc thù đó là môn học nghệ thuật, môn học mà chất liệu là ngôn từ với những hàm nghĩa sâu xa nên việc tiếp nhận môn học này lại càng khó khăn hơn.
 Bản thân là giáo viên dạy Văn, tôi luôn trăn trở làm sao cho học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn, làm sao để chất lượng học tập môn Ngữ văn của học sinh được cải thiện hơn và làm sao học sinh tự bộc lộ mình , nói lên được những suy nghĩ trước tập thể và trong những trang viết của mình .và làm sao trong mỗi tiết giảng luôn để lại cho học sinh những ấn tượng khó quên, bởi chính học sinh là người đã tìm tòi, khám phá ra những cái hay, cái đẹp của giá trị tác phẩm văn chương.Và cũng từ sau mỗi tiết học đó, học sinh đặt câu hỏi ngược trở lại cho giáo viên Vì sao?Tại sao? thiết nghĩ đó tiết học thành công.
3. Phương pháp pháp cụ thể:
	Người Việt Nam chúng ta quan niệm “đầu xuôi đuôi lọt”, mốc khởi đầu làm nền tảng vô cùng quan trọng cho những việc tiếp theo. Tiến trình lên lớp gồm 5 hoạt động, tôi chọn hoạt động Khởi động để nâng cao hiệu quả giờ dạy cũng là có nguyên do của vấn đề từ quan niệm đó. Với tư cách là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn, rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy tôi xin đề xuất một số phương pháp tạo hứng thú trong giờ dạy- học Ngữ Văn THPT thông qua hoạt động Khởi động như sau:
3.1 Thi tìm các câu danh ngôn.
a. Khái niệm
	Danh ngôn là chỉ những lời răn dạy và những câu triết lí hàm nghĩa sâu sắc, có tác dụng răn dạy, được mọi người sử dụng hằng ngày trong cuộc sống. Có danh ngôn là lời nói, lời răn của danh nhân như: “Học, học nữa, học mãi” (Lê – nin); “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn khó chữa” (M. đơ Mông – te – nhơ); “Tình yêu là niềm say mê đem lại hạnh phúc cho người khác” (F.Sile); “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học)Cũng có danh ngôn là thành ngữ, tục ngữ như “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Chuột sa chĩnh gạo”, “Ăn cây nào rào cây ấy”, “Đũa mốc đòi chòi mâm son”, “Ở hiền gặp lành”, “Uống nước nhớ nguồn”,. 
	Sưu tầm danh ngôn để vận dụng vào hoạt động Khởi động khi dạy học trên lớp có thể thu hút được sự chú ý của học sinh, tạo sự mới mẻ, khác lạ, kích thích và nâng cao hứng thú học tập ở học sinh đồng thời rèn kĩ năng đọc sưu tầm tài liệu, bồi dưỡng lối sống, nhân cách , mở rộng vốn kiến thức cho học sinh.
b. Ví dụ 
Ví dụ 
 Tiết 19: Tấm Cám (truyện cổ tích) [trang 65, Ngữ Văn 10 - tập 1]
- GV: Trong quan niệm của dân gian, khi một người làm một việc nào đó xấu hoặc ác thường để lại hậu quả khôn lường. Chúng ta thường nghe nhắc tới hậu quả đó bằng những câu châm ngôn mang đậm tính triết lí. Hãy tìm những câu châm ngôn đó và cho biết nó được đúc kết qua những tác phẩm Văn học dân gian nào ?
- HS: Thi tìm giữa các tổ. Tổ nào tìm được nhiều tổ đó chiến thắng . Trên cơ sở đó giáo viên thưởng bằng điểm số để lấy điểm miệng hoặc tràng pháo tay .
( HS có thể dẽ dàng tìm được những câu như : “ác giả ác báo – gieo gió gặt bão”, hoặc “ở hiền gặp lành”, “Đời cha ăn mặn đời con khát nước “,’Ai làm người nấy chịu “, “Sống tham , chết thối “,”Có phúc có phận “
- HS: Thạch Sanh, Tấm Cám..ạ!
- GV: Đúng rồi. Trong truyện Tấm Cám sự chiến thắng trọn vẹn của cái THIỆN đã chứng minh cho quy luật “ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành” của dân gian. Muốn hiểu tình tiết của câu chuyện như thế nào – chúng ta cùng đi vào bài học.
 => Hoạt động Khởi động nếu giáo viên vận dụng sưu tầm những câu danh ngôn, có thể phát huy được những khả năng không ngờ, kích thích trí tưởng tượng của học sinh , bồi dưỡng lối sống cao đẹp, nhân hậu – và như thế người dạy vừa truyền đạt được kiến thức, vừa rèn luyện khả năng tiếp thu ở các em. 
3.2 Kết hợp thực tế
a. Khái niệm
Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp giữa thực tế học tập – cuộc sống – xã hội. Kết hợp thực tế sẽ giúp cho hoạt động dạy học thân thiết hơn, gần gũi và khoáng đạt hơn. Dùng phương pháp này chỉ là cái “cớ” để dẫn vào bài học, vừa làm phong phú nội dung dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và tính chỉ dẫn của người dạy.
b. Ví dụ 
Ví dụ 1:
Tiết 36.Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt [trang 113, Ngữ Văn 10 - tập 1]
- GV: (có thể lấy dẫn chứng từ thực tế để hỏi học sinh). Quá trình giao tiếp giữa bạn bè trong giờ ra chơi, hoạt động dạy học trong nhà trường, hoạt động mua bán ngoài chợ, theo các em thuộc ngôn ngữ gì?
- HS: Ngôn ngữ sinh hoạt ạ!
- GV: Đúng rồi. Những quá trình giao tiếp đó thuộc ngôn ngữ sinh hoạt. Vậy ngôn ngữ sinh hoạt có những đặc điểm gì? Chúng ta cùng nhau đi vào tìm hiểu nội dung bài học.
Ví dụ 2
 Tiết 36. Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt [trang 31, Ngữ Văn 12 - tập 1]
- GV: (lấy 1 hoặc vài bài viết của học sinh để làm mẫu + áp dụng trong tiết trả bài kiểm tra). Yêu cầu học sinh khác phát hiện và sửa lỗi chính tả cho đúng.
- GV: (Sau khi học sinh đã phát hiện và sửa lỗi). Chúng ta đều biết cùng với quốc kỳ, quốc ca thì ngôn ngữ tiếng Việt đã trở thành một biểu tượng của sự thống nhất độc lập của quốc gia đó. Nên việc nói đúng viết chuẩn tiếng Việt cũng là một biểu hiện của thái độ tự tôn, ý thức bảo vệ tài sản quốc gia dân tộc. Vậy làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt? Chúng ta cùng đi vào tìm hiểu nội dung bài học.
Ví dụ 3
Tiết 76. Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu [trang 69, Ngữ Văn 12- tập 2]
- GV: Nền kinh tế càng phát triển sẽ kéo theo nhiều sự đổi thay trong cuộc sống. Và một trong những vấn đề đó là sự suy đồi về đạo đức, xuống cấp trầm trọng của các mối quan hệ vợ - chồng, cha – con, anh – em, Vậy, trong đời thường, đã bao giờ các em chứng kiến cảnh một người chống vũ phu đánh vợ? Một đứa con bất chấp đạo lí đánh lại cha không? 
- HS: Có ạ! HS có thể minh chứng cụ thể theo bốn địa bàn khu dân cư.
- GV: Đúng vậy. Thực trạng đau lòng đó đã được Nguyễn Minh Châu khám phá trong bình diện của nền văn học mới – bình diện đạo đức thế sự thông qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
=>Do yêu cầu về mặt thời gian của phương pháp Khởi động phải ngắn gọn, giản dị dễ hiểu nhưng phải đầy đủ mang tính thuyết phục cao, tránh dài dòng làm phân tán sự chú ý của học sinh. Mẫu dạy này hết sức hiệu quả về điều đó. Chỉ trong thời gian ngắn, giáo viên đã đặt học sinh vào tình thế “phán – xử”, vừa là người thách thức, vừa lấy chính mình để đi tìm câu trả lời. 
3.3. Sử dụng máy chiếu để nhìn hình – gọi tên 
a. Khái niệm.
	Sử dụng máy chiếu là một loại dạy học trực quan so với sử sụng tranh ảnh minh họa, băng ghi hình, Dù hình thức có khác nhau nhưng đều đem lại hiệu quả tích cực trong dạy học. Sử dụng máy chiếu có phạm vi tương đối rộng. Tiêu đề, các mục đề, tóm tắt nội dung, từ vựng, hình tượng trong bài, hiệu ứng, đều có thể chiếu. Sử dụng máy chiếu so với việc dạy học truyền thống sẽ tiết kiệm thời gian, sức lực và học tập có phần hiệu quả nhanh gọn, khoa học hơn.
b. Ví dụ .
Ví dụ 1:Tiết 26.Đất Nước - Chương V –Trường ca “Mặt đường khát vọng”–Nguyễn Khoa Điềm [ Trang 117, Ngữ Văn 12, Tập 1].
- GV:
+Sử dụng 6 bức ảnh chiếu được đánh số theo thứ tự : 1. Hòn Vọng Phu, 2.Hòn Trống Mái, 3.Đền Hùng ,4.Sông Cửu Long, 5.Núi con Cóc, 6.Núi con Gà.
+ Công bố thể thức thi giữa các tổ : Sau mỗi hình là một bức tranh 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_phuong_phap_tao_hung_thu_hoc_tap_mon_ngu_van_cho.docx