SKKN Một số phương pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học lớp 11 ở trường THPT Lê Lợi, Thọ Xuân, Thanh Hóa

SKKN Một số phương pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học lớp 11 ở trường THPT Lê Lợi, Thọ Xuân, Thanh Hóa

Khi học môn Tin học lớp 10 học sinh chủ yếu được rèn luyện những thao tác sử dụng hệ điều hành windows, chương trình soạn thảo văn bản Microsoft Word Đây là những nội dung không cần đòi hỏi phải tư duy nhiều, mà chỉ cần học kĩ và nhớ thao tác, thực hành nhiều lần thì sẽ thành thạo. Nhưng khi lên lớp 11 các em được tiếp xúc với ngôn ngữ lập trình Pascal thì việc học các thao tác thực hành trên máy và học thuộc bài không còn là yêu cầu chính nữa. Mà các em cần phải học cách tư duy logic, xây dựng thuật toán và viết những dòng lệnh máy tính chính xác đến từng dấu chấm, dấu phẩy. Điều này sẽ khiến nhiều em bỡ ngỡ và cảm thấy khó khăn dẫn đến ngại học môn Tin học.

Trong khi đó Tin học lại là một môn học mới, giáo viên giảng dạy còn thiếu kinh nghiệm, song mục tiêu của Bộ Giáo dục – đào tạo kể từ khi đổi mới sách giáo khoa là đổi mới phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học (PPDH) phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Luật giáo dục chương II, Mục 2, điều 28). Đổi mới giáo dục được vạch rõ tại Nghị quyết TW Đảng khóa VIII: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện lối tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học. Đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh”.

 

doc 20 trang thuychi01 11435
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số phương pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học lớp 11 ở trường THPT Lê Lợi, Thọ Xuân, Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
I. Lí do chọn đề tài............................................................................1
II. Mục đích nghiên cứu........................................................................................2
III. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................2
IV. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................2
B. NỘI DUNG .....................................................................................................3
I. Cơ sở lí luận .....................................................................................................3
II. Thực trạng vấn đề ............................................................................................3
III. Các giải pháp giải quyết vấn đề .....................................................4
IV. Hiệu quả trong việc triển khai SKKN...........................................................15
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ..........................................................................17
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Khi học môn Tin học lớp 10 học sinh chủ yếu được rèn luyện những thao tác sử dụng hệ điều hành windows, chương trình soạn thảo văn bản Microsoft Word  Đây là những nội dung không cần đòi hỏi phải tư duy nhiều, mà chỉ cần học kĩ và nhớ thao tác, thực hành nhiều lần thì sẽ thành thạo. Nhưng khi lên lớp 11 các em được tiếp xúc với ngôn ngữ lập trình Pascal thì việc học các thao tác thực hành trên máy và học thuộc bài không còn là yêu cầu chính nữa. Mà các em cần phải học cách tư duy logic, xây dựng thuật toán và viết những dòng lệnh máy tính chính xác đến từng dấu chấm, dấu phẩy. Điều này sẽ khiến nhiều em bỡ ngỡ và cảm thấy khó khăn dẫn đến ngại học môn Tin học.
Trong khi đó Tin học lại là một môn học mới, giáo viên giảng dạy còn thiếu kinh nghiệm, song mục tiêu của Bộ Giáo dục – đào tạo kể từ khi đổi mới sách giáo khoa là đổi mới phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học (PPDH) phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Luật giáo dục chương II, Mục 2, điều 28). Đổi mới giáo dục được vạch rõ tại Nghị quyết TW Đảng khóa VIII: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện lối tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học. Đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh”.
Bản thân là một giáo viên dạy môn Tin học, tôi cũng ý thức được điều đó và đã nắm vững lý thuyết về phương pháp dạy học và từng áp dụng. Nhưng do điều kiện thực tế và đối tượng học sinh ở một trường vùng trung du nên việc áp dụng tất cả các phương pháp là điều rất khó. Do đó, tôi luôn trăn trở, tìm tòi áp dụng các phương pháp dạy học phù hợp với học sinh của mình. Và tôi cũng đã từng áp dụng thành công: Một số phương pháp để nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học lớp 10 ở trường THPT Lê Lợi và sáng kiến này đã được xếp loại C cấp Tỉnh năm học 2014 - 2015. Trên cơ sở đó, năm học này tôi tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học môn Tin học lớp 11. Trong phạm vi nhỏ hẹp của đề tài, tôi xin được đề cập đến: “Một số phương pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học lớp 11 ở trường THPT Lê Lợi, Thọ Xuân, Thanh Hóa”
Trong quá trình triển khai đề tài, bản thân tôi tự thấy đã có những kết quả nhất định, muốn được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Hi vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến bổ ích để đề tài của tôi ngày một hoàn thiện hơn. 
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Áp dụng đề tài này tôi hướng tới những mục đích sau:
- Giúp học sinh có khả năng tư duy, giải quyết được các bài toán cơ bản và nâng cao của môn Tin học 11.
- Nâng cao chất lượng trong dạy học Tin học 11.
- Giúp học sinh thêm yêu thích bộ môn Tin học hơn.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Học sinh lớp 11 trường THPT Lê Lợi.
- Một số phương pháp dạy học.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu, so sánh.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Phương pháp được hiểu là con đường, là cách thức để đạt những mục tiêu nhất định.
Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động và giao lưu của thầy gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
Phương pháp nâng cao chất lượng là cách thức tiến hành các hoạt động dạy học để nâng cao quá trình tiếp thu bài của học sinh.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
1. Thực trạng chung.	
- Môn Tin học lớp 11 là môn khoa học tự nhiên không dễ đối với học sinh. Hơn nữa, đó là môn không thi tốt nghiệp và đại học nên chưa được các nhà trường, phụ huynh và học sinh quan tâm đúng mức. Dẫn đến chất lượng dạy học bị hạn chế. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng ở đây tôi chỉ đề cập đến vấn đề về phương pháp dạy và học môn Tin lớp 11 ở giáo viên và học sinh.
- Điều kiện phòng máy nhà trường chưa đáp ứng được 1 học sinh/máy, các em còn phải ngồi chung 2 -3 em/máy dẫn đến hiệu quả của các tiết thực hành chưa cao. Do đó việc nắm bắt nội dung các bài học bị hạn chế. 
 - Giáo viên hiếm khi được tham gia học bồi dưỡng trực tiếp các chuyên đề về phương pháp giảng dạy môn Tin học.
2. Về phía giáo viên.
- Có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực nhưng đôi lúc áp dụng còn khó khăn. Do nhiều nguyên nhân như: kinh nghiệm giảng dạy, đối tượng học sinh, điều kiện trường lớp
- Đôi khi muốn áp dụng một phương pháp mới nhưng lại bị cản trở bởi tâm lí đó là môn học phụ nên quá trình nghiên cứu có lúc bị gián đoạn, thiếu hiệu quả.
3. Về phía học sinh.
Khảo sát qua các năm giảng dạy, tôi thấy học sinh Trường THPT Lê Lợi có đến 70% gia đình các em không có máy tính. Vì vậy, việc thực hành ở nhà của các em rất hạn chế, dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Mặt khác, đa số học sinh trường THPT Lê Lợi chỉ chú trọng vào các môn thi Đại học nên việc áp dụng phương pháp dạy học phù hợp với bộ môn và với đối tượng học sinh thực sự rất khó khăn.
III. CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh phát hiện và sửa một số lỗi ngữ nghĩa thường gặp khi viết chương trình bằng ngôn ngữ lập trình Pascal.
	Khi thực hiện giảng dạy môn Tin học lớp 11 tại Trường THPT Lê Lợi, tôi thấy rằng, việc học sinh lập trình giải các bài toán trên máy tính thường gặp không ít khó khăn. Phần lớn các em đều gặp một số lỗi cơ bản về mặt cú pháp và ngữ nghĩa. Trong khi đó để viết được một chương trình hoàn chỉnh thì học sinh phải có tư duy logic về thuật toán, biết khai báo kiểu dữ liệu một cách hợp lí, biết sử dụng các câu lệnh đúng cú pháp. Do đó tôi đã tìm ra và áp dụng một số biện pháp: “Hướng dẫn học sinh phát hiện và sửa lỗi cú pháp khi viết chương trình bằng ngôn ngữ lập trình Pascal trong chương trình Tin học 11”. (Sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại C cấp Tỉnh năm 2013). Vì vậy, ở đây tôi chỉ đề cập đến việc hướng dẫn học sinh phát hiện và sửa một số lỗi ngữ nghĩa thường gặp, đó là:
1.1 Khai báo sai miền chỉ số cho dữ liệu kiểu mảng.
	Ví dụ 1: Nhập vào một dãy gồm 50 số nguyên lớn hơn 5 và nhỏ hơn 50. In mảng vừa nhập.
	Học sinh thường khai báo mảng như sau: Var a: array[5..50] of integer;
	Như vậy, đa số các em đang nhầm lẫn giữa giá trị của các phần tử trong mảng và số lượng các phần tử của mảng.
1.2. Giá trị của biến điều khiển vượt quá miền chỉ số của mảng.
Ví dụ 2: Nhập vào một dãy số gồm 10 phần tử và cho biết dãy vừa nhập có phải là dãy số không giảm?
Nhiều học sinh lập trình giải bài toán trên như sau:
Var a: array[1..10] of Real; i:integer; kt:boolean;
Begin
	Write(‘nhap day so:’);
	For i:=1 to 10 do
	Begin
	Write(‘a[’ ,i, ‘]’);
	Readln(a[i]);
	End;
	kt:=true; i:=1;
	while (kt) and (i<=10) do
	if (a[i] < a[i-1]) then kt:=false
	else i:=i+1;
	if kt then writeln(‘La day so khong giam!’)
	else writeln(‘La day so giam!’);
readln
End.
Khi thực hiện chương trình trên, chương trình dịch không báo lỗi nhưng kết quả thực hiện chương trình sẽ bị sai lệch. Lúc này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện từng bước chương trình để phát hiện lỗi. Ta có thể khắc phục lỗi trên bằng cách gán lại giá trị ban đầu cho biến đếm i=2.
 Tràn số do kết quả tính toán vượt quá giới hạn.
Ví dụ 3: Viết chương trình tính n! (với n là số nguyên dương được nhập vào từ bàn phím)
Function GT(n:integer):integer;
Var i, t : integer;
Begin
	T:=1;
	For i:=1 to n do t:=t*i;
	Gt:=t;
End;
Begin
	Writeln(‘4! = ’, GT(4));
	Writeln(‘9! = ’, GT(9));
	Readln;
End.
Khi thực hiện chương trình trên thì được kết quả là:
4! = 24
9! = - 30336
Như vậy, chương trình chỉ tính đúng 4!, còn 9! thì bị sai. Lúc này giáo viên có thể gợi ý để học sinh tự phát hiện ra lỗi. Lỗi này do khai báo biến T và giá trị trả về cho tên hàm là integer nên miền giá trị tối đa chỉ là 32767, thực tế 9! = 362880 vượt quá so với giá trị của kiểu dữ liệu integer. 
1.4. Vòng lặp thực hiện vô hạn.
	Ví dụ 4: Lập trình tính: S = 1! + 2! + 3! +. + n! với n là số nguyên dương được nhập vào từ bàn phím.
	Có nhiều học sinh viết chương trình như sau:
Var	i, n :integer; 	S: int64;
Function GT(m:integer):int64;
Var T : int64;
Begin
	T:=1;
	For i:=1 to m do t:=t*i;
	Gt:=t;
End;
BEGIN
	Write(‘Moi nhap so nguyen duong N = ’);
	Readln(n);
	S:=0;
	For i:= 1 to n do
	S:= S + gt(i);
	Writeln(‘S= ’, S);
	Readln;
End.
	Khi học sinh thực hiện chương trình trên thì vòng lặp không dừng được. Nguyên nhân là do chương trình con và chương trình chính cùng dùng chung biến toàn cục i. Do đó, trong chương trình chính khi gọi hàm gt(i) thì thực chất biến i đã được dùng chung cho 2 vòng lặp lồng nhau. Để khắc phục lỗi này chỉ cần chú ý các vòng lặp lồng nhau thì phải sử dụng biến điều khiển khác nhau.
1.5. Sử dụng sai thứ tự ưu tiên phép toán.
Thứ tự ưu tiên các phép toán trong ngôn ngữ lập trình Pascal như sau:
Lời gọi hàm
Biểu thức trong ngoặc
Toán tử NOT
Toán tử đổi dấu: -
 * / div mod
+ - or
>=,>,
1.6. Không hiểu nguyên tắc làm tròn số đối với số thực.
Trong toán học: là một kết quả đúng.
Tuy nhiên khi chuyển biểu thức trên sang Pascal thì sẽ cho kết quả sai:
If 3/sqrt(2)=1/sqrt(2)+1/sqrt(2)+1/sqrt(2) then write(‘Dung!’) else write(‘sai!’);
Giáo viên có thể chỉ ra nguyên nhân cho học sinh là: Khi thực hiện vế trái máy tính chỉ tính sai số 1 lần, còn vế phải chịu sai số 3 lần. Do đó kết quả khi thực hiện là không giống nhau. Đây chỉ là 1 nguyên nhân khiến cho quá trình tính toán gần đúng trên máy tính thành tính toán sai. Để tránh điều này bạn nên tuân thủ theo các qui tắc dưới đây:
So sánh bằng nên dùng biểu thức 
Const e=0.0001;
.
If abs(a-b)<e then write(‘Dung!’) else write(‘sai!’);
2. Giải pháp 2: Nâng cao khả năng lập trình bằng cách cung cấp một số bài tập khác.
Khi dạy lập trình nói chung và Pascal nói riêng, nhiều khi người dạy chỉ chú ý tới các bài tập yêu cầu về lập trình mà không nghĩ rằng trong những bước đầu để học sinh hiểu bài cần phải đưa ra nhiều dạng bài tập. Ngoài các bài tập về lập trình, tôi còn đưa ra một số dạng bài tập như: bài tập về viết thuật toán, bài tập về đọc hiểu chương trình, bài tập về sửa lỗi chương trình
2.1. Bài tập về viết thuật toán:
	- Theo định nghĩa trong sách giáo khoa Tin học 10, thuật toán là một dãy hữu hạn các thao tác được sắp xếp theo một trình tự xác định, sao cho sau khi thực hiện dãy thao tác ấy từ INPUT ta nhận được OUTPUT
	- Việc trình bày thuật toán trước khi viết chương trình là hết sức quan trọng. Thuật toán đúng thì chương trình mới có khả năng đúng, còn một thuật toán sai chắc chắn là cho một chương trình sai. Tuy nhiên đối với phần lớn học sinh lớp 11 thường bỏ qua bước này do tâm lý ngại mất thời gian. Do đó, giáo viên cần phải dành ra một lượng thời gian thích hợp để rèn luyện dạng bài tập này cho học sinh.
2.2. Bài tập về đọc hiểu chương trình.
Bài tập dạng này sẽ giúp phát triển tư duy, giúp học sinh hiểu bài, nhất là khi dạy nội dung các cấu trúc lệnh. Khi gặp một cấu trúc lệnh mới, giáo viên nên lấy ví dụ cụ thể và yêu cầu các em chạy thử bằng tay. Kết quả chỉ đúng khi các em đã hiểu được nguyên lí hoạt động của câu lệnh đó trong máy tính. Còn đối với chương trình cụ thể, giáo viên nên hướng dẫn các em thực hiện tuần tự từng lệnh theo từng câu lệnh cụ thể.
Ví dụ 1: Không thực hiện chương trình, hãy cho biết giá trị của biến S sau khi thực hiện đoạn chương trình sau:
S:= 0;
For i:=1 to 10 do
 S:= S + i*i;
Ví dụ 2: Không thực hiện chương trình, hãy cho biết kết quả xuất hiện trên màn hình sau khi thực hiện chương trình sau:
Program vd2;
Uses crt;
Var S,i:integer;
Begin
Clrscr;
i:=5; S:=0;
While i>1 do
Begin
 	If (i mod 2) 0 then S:=S + 2*i +1 else S:= S + 2*i;
	i:= i - 1;
End;
Writeln(‘S= ’, S);
End;
Readln;
End.
2.3 Bài tập về sửa lỗi chương trình.
Để hướng dẫn học phát hiện lỗi cú pháp, ở mỗi bài học tôi đều chuẩn bị sẵn các chương trình trong các Slide để trình chiếu cho các em quan sát. Sau đó tiến hành chia nhóm. Yêu cầu các nhóm chỉ ra các lỗi có trong chương trình. Chiếu kết quả của mỗi nhóm, cho các nhóm còn lại nhận xét, đánh giá. Cuối cùng giáo viên nhận xét, đánh giá cho điểm từng nhóm. Sau đây là một ví dụ khi dạy bài: Cấu trúc rẽ nhánh.
Ví dụ 3: Viết chương trình tìm nghiệm thực của phương trình bậc hai :
 ax2 + bx + c = 0 (a # 0).
Bước 1. Chiếu chương trình đã chuẩn bị sẵn cho cả lớp quan sát.
	Program	Vidu ;
Uses 	Crt ;
Var	a, b, c, d :Real ;
	x1, x2 : Real;
begin
	clrscr;
	write(‘Moi nhap a, b, c: ’); Readln(a,b,c);
	d := b * b – 4 * a*c;
	if d < 0 then
	writeln(‘Phuong trinh vo nghiem’);
	else
	 if d > 0 then
	Begin
	 x1 : = (-b – sqrt(d))/(2*a);
	 x2 :=(-b + sqrt(d))/(2*a);
	 writeln(‘Phuong trinh co hai nghiem, ’x1,x2);	
 End;
	 if d=0 then
	 writeln(‘Phuong trinh co nghiem kep,’-b/2a);
	Readln
 End.
Bước 2. Chia lớp thành 4 nhóm. Yêu cầu mỗi nhóm tìm lỗi sai có trong chương trình ở trên.
Bước 3. Đại diện các nhóm lên bảng trình bày kết quả.
Bước 4. Mỗi nhóm đánh giá, nhận xét các nhóm còn lại.
Bước 5. Giáo viên thực hiện biên dịch chương trình để học sinh thấy được các lỗi sai và phân tích để học sinh hiểu được nguyên nhân vì sao sai. Đánh giá, cho điểm các nhóm.
 Để hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi ngữ nghĩa tôi cũng tiến hành tương tự như trên. Bài toán tình huống cũng được chuẩn bị sẵn. Chiếu lên cho cả lớp quan sát, tiến hành chạy thử với các bộ Input khác nhau. (Xem Ví dụ 2 ở phần Giải pháp 1, mục 1.2). Yêu cầu học sinh suy nghĩ và cho biết vì sao chương trình khi chạy với bộ Input này thì đúng còn với bộ Input khác lại sai?
2.4. Bài tập về cho trước thuật toán, yêu cầu học sinh viết chương trình theo đúng thuật toán đó.
Một bài toán có thể có nhiều cách giải khác nhau, ứng với mỗi cách giải ta có một thuật toán. Nhưng ứng với mỗi thuật toán thì chỉ dùng để giải một bài toán cụ thể. Do đó, để giúp học sinh có khả năng nhanh chóng nắm được ý tưởng của người khác cần luyện cho các em biết cách viết chương trình theo một thuật toán cho trước. Khả năng hiểu nhanh ý tưởng của người khác cũng chính là yêu cầu trong hoạt động nhóm. Phát triển khả năng này là phát triển một phẩm chất tư duy quí báu để các em biết cách hợp tác trong công việc, một trong những yêu cầu của người lao động, sáng tạo trong thời đại mới, thời đại mà một sản phẩm là sự kết tinh lao động của nhiều người.
Đối với bài tập dạng này tôi yêu cầu học sinh viết chương trình cho các thuật toán đã nêu trong sách giáo khoa. (Ví dụ các thuật toán trang 43,45,58,)
2.5. Bài tập về giải bài toán trong một trường hợp riêng, yêu cầu học sinh phát hiện thiếu sót để từ đó hoàn thiện chương trình.
Ví dụ 5: Viết chương trình đếm và in ra các số trong 1 xâu đã cho.
Cho đoạn chương trình giải quyết công việc trên như sau:
I:=1; dem:=0;
While i<=length(xau) do
Begin
If (xau[i]>= ‘0’) and (xau[i]<= ‘9’) then
Begin
xauM:= ‘’;
while (xau[i]>= ‘0’) and (xau[i]<= ‘9’) do
begin
xauM:=xauM+xau[i];
i:=i+1;
end;
dem:=dem+1;
val(xauM,a[dem],n);
i:=i-1;
End;
I:=i+1;
End;
Write(‘xau co ’,dem, ‘ so la:’);
For i:=1 to dem-1 do write(a[i], ‘,’);
Write(a[dem]);
Đối với bài tập này, giáo viên cho chạy thử chương trình với các bộ Input khác nhau. Yêu cầu nhận xét chương trình đã thực hiện đúng hay chưa, có đúng đối với tất cả các bộ Input hay không?
Học sinh có thể phát hiện chương trình chỉ đúng với xâu chứa các số nguyên, còn nếu xâu chứa số thực thì chương trình chưa cho kết quả đúng. Từ nhận xét đó giáo viên hướng dẫn các em bổ sung và chỉnh sửa lại chương trình.
3. Giải pháp 3 : Nêu ứng dụng của bài toán vào thực tế.
Nếu giáo viên chỉ dạy theo cách thông thường là giao bài tập và hướng dẫn học sinh giải bài tập thì nhiều em không nhận thức được vai trò của môn Tin học 11. Do đó các em chỉ làm cho xong, mang tính chiếu lệ. Vì vậy, học trước quên sau. Nhưng từ khi tôi nêu ứng dụng của bài toán vào thực tế các em đã hiểu được tầm quan trọng của môn học. Nên các em đã hứng thú hơn, say mê hơn với môn học. Lúc này các em học tập với tâm thế rất hồ hởi, vui vẻ. Tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn. Sau đây là một số ví dụ:
Ví dụ 1: Sau khi viết chương trình giải phương trình: 
Tôi đã nêu ứng dụng của bài toán vào thực tế: Dùng để giải phương trình bậc 2 trên máy tính cá nhân, tích hợp vào máy tính bỏ túi như: CasioFX 500A, CasioFX500MS, mà người dùng chỉ cần nhập 3 hệ số a, b, c vào máy tính thì máy tính sẽ đưa ra kết quả chính xác.
	Ví dụ 2: Khi giải bài toán sắp xếp một dãy gồm N số không giảm, sau khi đã viết hoàn chỉnh chương trình tôi đặt vấn đề: Nếu dãy N số trên là điểm thi của N thí sinh dự thi vào lớp 10 trường THPT Lê Lợi thì bài toán trên giúp ta giải quyết được vấn đề gì? Lúc này không khí lớp học trở nên sôi nổi, các em rất hào hứng đưa ra câu trả lời. Qua đó tôi còn yêu cầu các em nêu các bài toán thực tế khác có áp dụng chương trình vừa viết ở trên.
	Ví dụ 3: Sau khi giải bài toán Đếm các số có giá trị bằng 0 trong dãy gồm N số cho trước, tôi nêu vấn đề: Nếu N số trên là điểm thi đại học môn Toán của N học sinh trường THPT Lê Lợi thì bài toán trên giải quyết vấn đề gì? Sau đó tôi còn yêu cầu học sinh sửa chương trình trên để giải quyết bài toán: Thông kê số học sinh đạt điểm giỏi (khá, trung bình, yếu, kém) trong kì thi.
4. Giải pháp 4: Phát triển bài toán mới từ bài toán đã có.
Đây cũng là một giải pháp đổi mới được tôi áp dụng vào một số tiết học. Thông thường nếu giáo viên tổ chức tiết học không tốt thì sẽ không đủ thời gian để tiến hành giải pháp này. Sau khi tiến hành giải pháp này tôi thấy học sinh đã nắm vững kiến thức hơn, chủ động hơn trong việc giải bài tập và tự tìm ra các bài toán tương tự hoặc một bài toán mới là sự mở rộng, đào sâu của bài toán vừa giải.
Ví dụ: Từ bài toán gốc: “Viết chương trình nhập vào một số tự nhiên n, in ra màn hình các ước của n theo thứ tự tăng dần” tôi đã nêu ra một số bài toán sau:
1.Đếm số ước của n. Cho biết n có phải là số nguyên tố?
2.Tính tổng các ước của n. Cho biết n có phải là số hoàn hảo?
3. Tìm các ước chung của hai số tự nhiên. Đưa ra ước chung lớn nhất của hai số tự nhiên đó.
5. Giải pháp 5: Tiến hành kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
 	Trong dạy học, việc đánh giá không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của học sinh mà còn tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Ví dụ: Trong giờ thực hành đầu tiên của một bài học, giáo viên thường đưa ra mục đích yêu cầu của bài thực hành, sau đó hướng dẫn lại các kiến thức, kỹ năng mà giờ lý thuyết đã học. Để thực hiện được mục đích đó, học sinh phải có kiến thức và kỹ năng nhất định nào đó mới đạt được. Cuối mỗi buổi thực hành, giáo viên dành khoảng 3 – 5 phút, gọi một đến hai học s

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_phuong_phap_huu_hieu_nham_nang_cao_chat_luong_da.doc