SKKN Một số kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học tích cực môn GDCD lớp 6 trường THCS Ái Thượng
Chúng ta biết rằng Đảng và Nhà nước ta đang “Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa” , cùng với sự kiện trên, hệ thống giáo dục nói chung , từng bậc học nói riêng, không ngừng ra sức phấn đấu thực hiện có hiệu quả việc đổi mới chương trình sách giáo khoa , đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích nâng cao trình độ hiểu biết của học sinh về mọi mặt, đáp ứng “ Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện” (Luật - GD). Xác định được nhiệm vụ đó, bộ môn giáo dục công dân ở Trường Trung học cơ sở có một vị trí, vai trò quan trọng trong trong việc góp phần trực tiếp giáo dục nhân cách con người và ý thức chấp hành pháp luật. Điều này là hết sức cần thiết. Vì vậy trong giảng dạy làm thế nào để tạo được hứng thú học tập bộ môn, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh , nâng cao chất lượng bộ môn GDCD bậc THCS nói chung và GDCD lớp 6 nói riêng. Hình thành cho học sinh nhân cách, lối sống tốt, ứng xử đúng phạm trù pháp luật. Đó là vấn đề đặt ra cho chúng ta những người làm công tác giáo dục đặc biệt là với giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn GDCD trong nhà trường.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC MÔN GDCD LỚP 6 TRƯỜNG THCS ÁI THƯỢNG” Người thực hiện: Lò Thị Thư Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Ái Thượng SKKN thuộc môn: GDCD THANH HOÁ NĂM 2018 MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 1 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2 NỘI DUNG 2 2.1 Cơ sở lí luận 2 2.2 Thực trạng vấn đề 3 2.3 Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 4 - 17 2.4 Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 18-19 3 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 19-20 3.1 Kết luận 3.2 Kiến nghị Tài liệu tham khảo 21 MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG 1. MỞ ĐẦU 1 1.1 Lí do chọn đề tài. 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 1 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2. NỘI DUNG 3 2.1 Cơ sở lý luận của một số kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học tích cực môn GDCD lớp Trường THCS Ái Thượng. 2 2.2 Thực trạng vấn đề 3- 4 2.3 Các giải pháp đã giải quyết vấn đề 5-17 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 17-19 3 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: 20 3.1 Kết luận. 20 3.2 Kiến nghị. 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC GIẢI 1. MỞ ĐẦU 1. 1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: * Lí do khách quan: Chúng ta biết rằng Đảng và Nhà nước ta đang “Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa” , cùng với sự kiện trên, hệ thống giáo dục nói chung , từng bậc học nói riêng, không ngừng ra sức phấn đấu thực hiện có hiệu quả việc đổi mới chương trình sách giáo khoa , đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích nâng cao trình độ hiểu biết của học sinh về mọi mặt, đáp ứng “ Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện” (Luật - GD)... Xác định được nhiệm vụ đó, bộ môn giáo dục công dân ở Trường Trung học cơ sở có một vị trí, vai trò quan trọng trong trong việc góp phần trực tiếp giáo dục nhân cách con người và ý thức chấp hành pháp luật. Điều này là hết sức cần thiết. Vì vậy trong giảng dạy làm thế nào để tạo được hứng thú học tập bộ môn, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh , nâng cao chất lượng bộ môn GDCD bậc THCS nói chung và GDCD lớp 6 nói riêng. Hình thành cho học sinh nhân cách, lối sống tốt, ứng xử đúng phạm trù pháp luật. Đó là vấn đề đặt ra cho chúng ta những người làm công tác giáo dục đặc biệt là với giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn GDCD trong nhà trường. * Lí do chủ quan: Bản thân tôi là một giáo viên dạy GDCD bậc học THCS đã gần 20 năm công tác, được dự và triển khai các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, nhất là các lớp thay sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy, bản thân có vốn kiến thức cũng như kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy và cũng có mong muốn đáp ứng mục tiêu của Đảng và Nhà nước, góp phần đào tạo thế hệ trẻ có nhân cách hoàn chỉnh phù hợp với thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy tôi chọn đề tài nghiên cứu “Một số kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng môn giáo dục công dân lớp 6 ở Trường THCS Ái Thượng” để làm đề tài nghiên cứu của mình. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Môn GDCD là môn học nhằm giáo dục học sinh các chuẩn mực đạo đức phù hợp với quy định xã hội, qua đó hình thành nhân cách con người. trong giảng dạy giáo viên phải từng bước phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, học sinh tham gia tích cực học tập để tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng và thái độ cho bản thân trở thành người có ích cho xã hội. - Giúp học sinh nhận thức được: “ Học phải đi đôi với hành” ; “ Lí luận phải đi đôi với thực tiễn” giúp học sinh hứng thú trong học tập môn GDCD nói chung, bậc THCS nói riêng, GDCD lớp 6 riêng hơn nữa. - Người giáo viên phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo học tập của học sinh, qua việc vận dụng các phương pháp đặc trưng bộ môn, bao gồm các phương pháp dạy học tích cực kết hợp với phương pháp cổ truyền được kết hợp hài hòa và hiệu quả tùy theo tiết học, bài học. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu về các phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng môn giáo dục công dân lớp 6 ở Trường THCS Ái Thượng như: Phương pháp động não, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức trò chơi sao cho phù hợp với khả năng nhận thức, trình độ học sinh khối lớp 6, nhất là học sinh dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu. 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo, nghiên cứu tài liệu hướng dẫn về phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực . Tham khảo SGK, SGV, sách chuẩn kiến thức kĩ năng bộ môn GDCD 6. Sử dụng máy chiếu đa năng. - Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát thái độ, mức độ hứng thú học tập của học sinh. - Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm dạy và học: Tích lũy các giờ dạy trên lớp, dự giờ đồng nghiệp, đồng nghiệp dự giờ góp ý. - Phương pháp thực nghiệm: Lựa chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng; áp dụng dạy thử nghiệm trên lớp. - Phương pháp phân tích: So sánh chất lượng giờ dạy, lực học, mức độ tích cực của học sinh khi chưa áp dụng SKKN với khi đã áp dụng SKKN. 2. NỘI DUNG : 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Đáp ứng yêu cầu mục tiêu giáo dục của Đảng và nhà nước ta hiện nay: “ nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học”nói chung. Riêng trong giảng dạy môn GDCD, không chỉ đơn giản truyền thụ tri thức cho học sinh mà phải tổ chức cho học sinh hoạt động, qua hoạt động hình thành cho các em tình cảm, niềm tin đạo đức và hành vi pháp luật. Đặc biệt hình thành thói quen đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật ở mooic học sinh. Giáo viên cần tránh lối dạy thiên về lí thuyết, truyền thụ một chiều, học sinh ghi chép nhiều, khó nhớ, không khắc sâu được kiên thức, không vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống. theo yêu cầu của bộ môn. 2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : Học sinh trườngTHCS Ái Thượng nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn không có đủ điều kiện học tập. Chủ yếu là con em dân tộc thiểu số nên sự nhanh nhạy tiếp thu kiến thức của các em có phần hạn chế. Vẫn còn nhiều học sinh đọc chậm, viết chậm. Nếu giáo viên không hướng dẫn phương pháp tự học và dặn dò kĩ sau mỗi tiết dạy thì chắc chắn tiết học sau sẽ rất thụ động, chỉ tiếp thu những gì mà giáo viên truyền đạt, không tham gia tích cực trong các hoạt động học tập, không nêu được ý kiến nhận xét về những vấn đề, những tình huống đã gặp trong thực tế, không đóng góp ý kiến xây dựng bài, do đó tiết học không hứng thú sinh động.Với việc học tập như vậy kéo theo tình trạng học sinh không vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống như: Đã học bài “Lễ độ”, bài “Đoàn kết, tương trợ” “Trung thực ”mà còn tình trạng nhiều học sinh vô lễ với Thầy cô, nói tục, chửi thề, gây gỗ đánh nhau, lấy cắp đồ dùng học tập, không biết giữ gìn vệ sinh cá nhân cũng như vệ sinh chung Khi thực hiện phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học. GV đã có sự chuẩn bị tốt về nội dung, phương pháp. câu hỏi thảo luận nhóm, sưu tầm ca dao, tục ngữ có liên quan đến các phạm trù đạo đức, pháp luật, xây dựng tiểu phẩm, phân công sắm vai, chia nhóm thảo luận và nội dung thảo luậnTuy nhiên học sinh không có sự chuẩn bị tốt những vấn đề nêu trên dẫn đến tiết học bị động, không tích cực, sáng tạo, nhàm chán, thiên về lí thuyết, khô khan xa rời thực tiễn. Mất nhiều thời gian diễn giảng Giáo viên chưa có biện pháp xử lí kịp thời khi giảng dạy, chính vì vậy còn nhiều học sinh không chú tâm theo dõi, lơ là, không tích cực hoạt động học tập. Ví dụ: Khi giáo viên giảng bài, học sinh ngồi nói chuyện, làm việc riêng, hay khi giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm thì chỉ có học sinh khá, giỏi góp ý kiến còn học sinh trung bình, yếu không tham gia thảo luận, không có ý kiến nhận xétGiáo viên phải quan sát, nhắc nhở, động viên rất nhiều. Nhìn chung HS chưa có hứng thú học tập, kết quả điểm kiểm tra và điểm trung bình còn thấp, nhiều HS còn bị điểm yếu. * Kết quả khảo sát mức độ hứng thú học tập của học sinh trước khi vận dụng đề tài SKKN năm học 2016- 2017: Lớp / Sĩ số Rất hứng thú Hứng thú Bình thường Không hứng thú SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 6A -28 HS 5 18 6 21,4 8 28,6 9 32,1 6B- 27 HS 4 14,8 6 22,2 9 33,3 8 29,7 * Kết quả khảo sát điểm của học sinh khi chưa vận dụng đề tài SKKN năm học 2016- 2017 Lớp/ Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 6A-28 HS 3 10,7 5 17,9 12 42,9 8 28,5 6B- 27 HS 2 7,4 7 25,9 12 44,5 6 22,2 Qua bảng khảo sát thực trạng trên cho thấy mức độ hứng thú học tập của học sinh còn rất ít , mỗi lớp chỉ có 4 đến 5 em rất hứng thú, số học sinh không hứng thú trong tiết học cao , mỗi lớp 8 đến 9 em, vì vậy kết quả điểm khảo sát khi chưa vận dụng đề tài này rất thấp, số học sinh đạt điểm giỏi chỉ có 1 đến 2 em, học sinh điểm khá 5 đến 7 em, trong khi đó điểm yếu còn nhiều , mỗi lớp 6 đến 8 em, như vậy là quá thấp với môn GDCD, một môn học được xem là thiết thực nhất, dễ học, dễ hiểu và dễ gây cảm hứng học tập với học sinh nhất. Từ đó dẫn đến hành vi ứng xử của nhiều em học sinh sai lệch chuẩn mực xã hội, Điều này khiến bản thân tôi rất lo lắng và trăn trở và quyết định nghiên cứu đề tài “Một số kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học mới nhằm nâng cao chất lượng môn giáo dục công dân lớp 6 ở Trường THCS Ái Thượng” với mong muốn sẽ tạo được hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng bộ môn GDCD nói chung và lớp 6 nói riêng. 2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: -Vài năm sau khi thay sách, bản thân có kinh nghiệm về cách sử dụng các phương pháp dạy học tích cực cũng như có sự đầu tư nghiên cứu, cách giảng dạy phương pháp này, tích lũy được kinh nghiệm, bài học có nội dung phong phú, phần hướng dẫn, dặn dò sâu sát cụ thể hơn, xây dựng các hoạt động học phù hợp với đối tượng học sinh. Học sinh tự đặt vị trí của mình vào vị trí tự học, chủ động hoạt động lĩnh hội kiến thức . vì vậy trong những năm gần đây, việc dạy bộ môn GDCD tương đối nhẹ nhàng và thoải mái, tiết học không còn nặng nề, gò bó nữa. Giáo viên nghiên cứu, lựa chọn phương pháp phù hợp từng tiết học, bài học. phương pháp dạy học môn GDCD rất đa dạng, phong phú, giáo viên biết cách vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp truyền thống kết hợp các phương pháp hiện đại. Học sinh hoạt động theo cá nhân, theo nhóm để lĩnh hội tri thức hiệu quả. - Giáo viên tìm hiểu kĩ yêu cầu mục tiêu của mỗi bài qua sách giáo viên, xác định trọng tâm cần đạt, từ đó tìm trong tài liệu, sách báo có liên quan để chọn lọc những nội dung phù hợp với mục tiêu bài học, với yêu cầu của giáo dục. - Đưa ra số liệu, sự kiện, bài tập tình huống, xây dựng các tình huống sắm vai sát với thực tế cuộc sống và nội dung bài học Để tạo sự chú ý và thu hút của học sinh, người giáo viên phải thường xuyên cập nhật tin tức thời sự, nắm bắt những thông tin, sự kiện đã diễn ra ở địa phương, trong nước và trên thế giới, sự đổi mới và phát triển đi lên của quê hương đất nước. Áp dụng các trò chơi gây hứng thú học tập cho học sinh trong tiết học như: Thực hiện các trò chơi qua chương trình, qua dạy giáo án điện tử Với phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm là phương pháp phù hợp với mục tiêu giáo dục nhân cách, giúp người học tiếp thu tri thức, không nhồi nhét tri thức mà luôn tự mình nghiên cứu, suy nghĩ tiếp cận thi thức, rèn luyện phẩm chất, năng lực, phát huy tính năng động sáng tạo. Tìm tòi, học hỏi từ sách, báo, tư liệu, thông tin, truyền thanh. Tiếp thu sự đóng góp ý kiến, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp qua dự giờ trao đổi ý kiến. Tham khảo ý kiến của học sinh về bộ môn, qua kiểm tra chất lượng, qua hoạt động cuả học sinh trên mỗi tiết dạy, giáo viên có thể rút ra kinh nghiệm để bổ sung, chỉnh sửa. Trong tiết dạy có thể vận dụng các phương pháp giảng dạy tùy theo mỗi bài sao cho phù hợp. 2.3.1. Vận dụng Phương pháp động não: - Thường sử dụng kiểm tra bài cũ Giáo viên ghi câu hỏi, bài tập trắc nghiệm, bài tập tình huống ( Bảng phụ hoặc máy chiếu). Học sinh thực hiện. - Sử dụng trong giảng bài mới: Ở phần đặt vấn đề: Truyện đọc, tình huống, thông tin, sự kiệnGiáo viên chỉ định học sinh bất kì đọc, học sinh khác đọc tiếp theo chỉ định của giáo viên để tránh học sinh lơ là. Giáo viên theo dõi uốn nắn cách đọc. GV có thể cho HS đọc phân vai để tạo không khí học tập sinh động cho tiết học. GV Cho học sinh đọc câu hỏi gợi ý. Học sinh tự suy nghĩ và trả lời bằng cách giơ tay. Học sinh tự nhận xét câu trả lời và bổ sung ý kiến của mình. Giáo viên nhận xét, ngợi khen câu trả lời đúng( có thể cho điểm, có thể khen động viên tinh thần các em ) Động viên học sinh chưa phát biểu hay phát biểu chưa đúng. Hoặc GV nêu lên vấn đề để giải quyết vấn đề trước lớp. Cho HS phát biểu ý kiến càng nhiều càng tốt. Ghi tất cả các ý kiến phát biểu trên bảng, không loại trừ ý kiến nào( trừ ý kiến trùng lặp Phân loại các ý kiến. Phân tích làm rõ các ý kiến chưa sáng tỏ, rõ ràng. Tổng hợp ý kiến học sinh. Chốt lại vấn đề ( Đây là kết quả tham gia chung của học sinh) 2.3.2. Phương pháp thảo luận nhóm: Đây là phương pháp hiện dại được sử dụng rộng rãi, nhằm giúp HS tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập. HS có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay của mình để giải quyết một vấn đề nào đóvề đạo đức hay pháp luật. a. Chuẩn bị: Để đạt hiệu quả cao phương pháp này cần phải có sự chuẩn bị tốt GV chuẩn bị bảng phụ hoặc máy chiếu để ghi câu hỏi thảo luận nhóm. HS chuẩn bị bảng phụ để ghi ý kiến của nhóm . b. Cách thực hiện: Chia lớp ra 3- 4 nhóm , mỗi nhóm 7-8 em HS có đủ các thành giỏi , khá , trung bình, yếu. Phân công nhóm trưởng, thư kí ghi ý kiến ( luân phiên thay đổi thư kí để HS thể hiện và rèn kĩ năng ) Khi thảo luận các thành viên của nhóm ngồi đối diện nhau, nhóm trưởng điều khiển, động viên các bạn trong nhóm góp ý kiến,thư kí ngồi giữa ghi bảng nhóm Nội dung chủ đề thường thảo luận là: Tìm các biểu hiện, ý nghĩa, cách rèn luyện một chuẩn mực đạo đức, pháp luật nào đó GV yêu cầu HS bất kì đọc câu hỏi thảo luận - Quy định thời gian thảo luận 3-5 phút. GV giao nhiệm vụ, bao quát, nhắc nhở, hộ trợ khó khăn cho HS. Hết thời gian đại diện nhóm trình bày kết quả. Nhận xét chéo và kết luận và tuyên dương nhóm làm tốt, động viên nhóm chưa làm tốt. Ví dụ : HOẠT ĐỘNG NHÓM trong bài “ Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm” GDCD 6 kì II. * Bước 1: Giao nhiệm vụ - GV gọi 1 HS đọc Truyện đọc skg. Tổ chức cho HS thảo luận nhóm: Chia lớp thành 3 nhóm. Thời gian: Học sinh thực hiện nhiệm vụ trong 5 phút. - Quy định trợ giúp: Giơ cờ màu xanh: Báo hoàn thành nhiệm vụ. Giơ cờ màu đỏ: Trợ giúp khó khăn về nội dung và thời gian... - Hướng dẫn phiếu học tập: - Nhiệm vụ cụ thể cho học sinh: Quan sát mục 1 – Truyện đọc: Quan sát phần: Gợi ý câu hỏi sgk. Yêu cầu học sinh thảo luận theo nội dung vấn đề giáo viên đưa ra: a.Vì sao ông Hùng gây ra cái chết cho ông Nở? b.Việc ông hùng bị khởi tố chứng tỏ điều gì? Học sinh: Nhận nhiệm vụ theo yêu cầu của giáo viên. Cử nhóm trưởng, thư kí. Thảo luận nhiệm vụ. * Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ (Học sinh là đối tượng chủ yếu). Học sinh: Làm việc theo nhóm đã được phân công trả lời lần lượt từng nội dung để hoàn thành phiếu học tập theo yêu cầu của giáo viên. Giáo viên: Hướng dẫn, quan sát học sinh thực hiện nhiệm vụ, hỗ trợ học sinh khi thực hiện nhiệm vụ. * Bước 3: Thảo luận, trao đổi, báo cáo. Giáo viên: Yêu cầu đại diện các nhóm lên bảng trình bày kết quả thảo luận. Học sinh: Đại diện các nhóm lên bảng trình bày kết quả, nhận xét. Giáo viên: Công bố đáp án chuẩn hóa kiến thức; Đối chiếu, nhận xét. * Bước 4: Phương án kiểm tra, đánh giá: Giáo viên: - Tổ chức cho học sinh đánh giá kết quả thảo luận nhóm theo phần 2: Đánh giá nhiệm vụ tại phiếu học tập. - Nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động của học sinh. Bổ sung, chốt kiến thức. a. Ông Hùng đã cứu lúa bằng cách chăng dây điệnvà làm ông Nở chết. Không cố ý giết người. b. Chứng tỏ Pháp luật rất nghiêm minh. Công dân có quyền được PL bảo hộ về tính mạng. GV mở rộng cung cấp: Hiến pháp năm 2013- Điều 19 “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.” Hành cố ý đều là vi của ông Hùng đã xâm phạm tới tính mạng của ông Nở (Gây ra cái chết cho người khác dù là vô ý hay xâm phạm tính mạng ) Ông Hùng sẽ bị xử lí theo quy định của BLHS năm 2015 điêu 128 ( Có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 ) 1. Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm . 2.3.3. Phương pháp đóng vai: Đây là một trong những phương pháp gây hứng thú học tập cho HS Chuẩn bị : Tình huống sắm vai, có chủ đề sát với nội dung bài học ( GV cung cấp cho HS trước để HS tự chọn lời thoại hoạc lời thoại của GV ) - Phân công : HS lớp, nhóm, hoặc đội. HS tự phân vai hoặc tình nguyện nhận vai, tập trước ở nhà. b.Cách tiên hành: GV chọn HS làm người điều khiển. GV cho HS điều khiển giới thiệu chủ đề tiểu phẩm. Giới thiệu vai diễn ( Lần lượt xếp hàng chào khán giả ). Tuyên bố tiểu phẩm chúng em xin được bắt đầu: + Người dẫn truyện hay tình huống đọc to, rõ ràng gây hứng thú cho người nghe. Các vai diễn nhập vai, hóa trang đơn giản, thu hút chú ý người xem GV cho HS nhận xét và kết luận: + Tiểu phẩm , cách sắm vai, ngợi khen vai diễn tốt, động viên vai diễn chưa để cố gắng và phát huy. Ví dụ: GV cho HS sắm vai trong bài 16 “ Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm ” Giáo viên: Cho HS sắm vai tình huống : Trang và Trinh nói xấu Thư là cả gia đình Thư đều có tính ăn cắp vặt, hai bạn rủ nhau là sẽ không chơi với Thư nữa. Thư nghe được câu chuyện của hai bạn nên rất phẫn nộ và định đi báo cô giáo thì bị Trang và Trinh chặn lại đánh. Ngọc Anh thấy vậy đã kịp thời can ngăn các bạn và báo lên nhà trường xử lí. HS: sắm vai .( 4 em HS) GV: Em hãy nhận xét việc sắm vai của các bạn và cho biết trong tình huống ai đúng? Ai sai ? Vì sao ? HS: -Thư đúng vì biết phản ứng và bảo vệ bản thân và gia đình khi bị nói sai, đặt điều, không có chứng cứ. - Ngọc Anh đúng vì đã can ngăn các bạn đánh nhau và báo lên nhà trường xử lí. -Trang và Trinh sai + Nói Thư và gia đình bạn ăn cắp => xâm phạm tới danh dự và nhân phẩm của người khác. (Hành vi này xét theo BLHS 1999 là “tội vu khống”) + Đánh bạn => xâm phạm tới thân thể, sức khỏe người khác. Ví duï: Khi daïy baøi 17: “Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở” – GDCD 6 Giáo viên cho HS sắm vai: Tình huống: “ Hai chú công an đang rượt đuổi một phạm nhân trốn trại, đã có lệnh truy nã. Hắn chạy vào một ngõ hẹp rồi mất hút. Hỏi ông Tá, ông tá nói không thấy, hai chú công an đề nghị ông Tá cho vào nhà khám nhưng ông Tá không đồng ý.Biết rằng chỉ cần lơi lỏng một chút là tên này xổng mất, nên hai chú công an bàn nhau, quyết định cứ vào nhà ông Tá khám”. Chuẩn bị : - GV cung cấp tình huống ở phần dặn dò của tiết 16. HS phân công sắm vai ( Cả lớp thực hiện ). Người dẫn chuyện bắt đầu đọc tình huống Câu 1: Hai chú công an có vi phạm về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của ông Tá không ? Câu 2: Theo em hai chú công an nên làm thế nào ? HS trao đổi: GV dẫn dắt HS trả lời cá nhân . GV cho HS đọc Quy định Điều 73- PH 1992 “ Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp pháp luật cho phép” Trả lời: Dựa trên quy định trên Câu 1: Hai chú công an đã xâm phạm vào quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của ông Tá. Vì ông Tá không đồng ý cho khám nhà? Câu 2: Theo em hai chú công an nên làm : Để 1 ngư
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_day_hoc_tich_cu.docx