SKKN Một số kinh nghiệm trong dạy phụ đạo nhằm nâng cao chất lượng môn Vật lý - Khối 10 ở trường THPT Hà Văn Mao
Trong những năm gần đây và đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang tiến hành cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới giáo dục là một trong những trọng tâm của công cuộc đổi mới.
Với quan niệm giáo dục là quốc sách hàng đầu, báo cáo chính trị của đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nư¬ớc, là điều kiện để phát huy nguồn lực con ngư¬ời – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trư¬ởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, ph¬ương pháp dạy học ”.
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như : "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua việc thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về giáo dục nói chung, trong có bộ môn Vật lý nói riêng.
Vấn đề học sinh yếu kém hiện nay luôn được cả xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ĐDDH: Đồ dùng dạy học GD - ĐT: Giáo dục - Đào tạo GVCN: Giáo viên chủ nhiệm GV: Giáo viên HS: Học sinh NXB: Nhà xuất bản TNKQ: Trắc nghiệm khách quan SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm SGK: Sách giáo khoa MỤC LỤC Trang I. MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 1. Cơ sở lí luận 3 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN 4 3. Các biện pháp và hình thức tổ chức thực hiện 5 3.1. Phân loại học sinh yếu kém môn vật lý 5 3.2. Một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém 6 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 13 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 14 I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây và đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang tiến hành cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới giáo dụcLuận Văn - Đề Án - Tiểu Luận Giáo Dục là một trong những trọng tâm của công cuộc đổi mới. Với quan niệm giáo dục là quốc sáchKho Sách Trực Tuyến hàng đầu, báo cáoDownload báo cáo tốt nghiệp các ngành chính trị của đại hội Đảng cộng sản Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hộiLuận Văn - Đề Án - Tiểu Luận Xã Hội, tăng trưởng kinh tếLuận Văn - Đề Án - Tiểu Luận Kinh Tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học ”. Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động lớn như : "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua việc thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về giáo dục nói chung, trong có bộ môn Vật lý nói riêng. Vấn đề học sinh yếu kém hiện nay luôn được cả xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức. Môn Vật lý trung học phổ thông là một môn học có thể nói là khó học, khó hiểu với nhiều học sinh nhất là học sinh từ mức trung bình trở xuống nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển tư duy của học sinh trong học tập, trong đời sống thực tiễn và khoa học kĩ thuật. Trong quá trình giảng dạy bộ môn Vật lý, người thầy không những phải hướng tới mục tiêu là giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ và động cơ học tập đúng đắn, để cho học sinh có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới, khắc sâu thêm kiến thức cũ đã được học mà còn giúp học sinh biết đưa kiến thức Vật lý đã học vào đời sống, vào thực tiễn. Từ thực tế dạy môn Vật lý ở Trường THPT Hà văn Mao - Huyện Bá Thước - một trong những trường miền núi còn nhiều khó khăn: Tỷ lệ học sinh yếu kém rất cao, thậm chí có những lớp số học sinh này chiếm từ 50% dến 70%. Vì vậy, Bản thân tôi và các đồng chí trong nhóm Vật lý cũng như trong trường thường xuyên phải dạy các lớp có rất nhiều học sinh yếu kém. Kết quả là có rất nhiều học sinh không những không tiến bộ mà còn yếu hơn, phải thi lại, phải lưu ban và nhiều em phải chịu cảnh rời xa mái trường.Vì thế, tôi thiết nghĩ việc tìm ra nguyên nhân và có những biện pháp giúp đỡ những đối tượng học sinh này để các em tiến lên mức đạt yêu cầu và có kết quả cao hơn nữa trong học tập nói chung và môn Vật lý nói riêng là việc làm rất cần thiết. Nếu làm được điều này chúng ta sẽ nâng dần được chất lượng giảng dạy nói chung và bộ môn Vật lý nói riêng, đồng thời sẽ làm cho các em thích học, thích đến trường, yêu trường yêu lớp hơn và đặc biệt sẽ giảm được số lượng học sinh bỏ học hơn. Với những lí do trên, ngay đầu năm học bắt dầu từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân tôi luôn nuôi một niềm hy vọng là làm sao đề số học sinh yếu kém có hứng thú trong học tập, yêu học tập và đặc biệt là thích học môn Vật lý. Và đây cũng chính là lí do tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm trong dạy phụ đạo nhằm nâng cao chất lượng môn Vật lý - Khối 10 ở trường THPT Hà Văn Mao” để làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều học sinh học kém môn vật lý. Phân loại học sinh yếu kém môn Vật lý. Đưa ra một số biện pháp cụ thể nhằm giảm thiểu số lượng học sinh học yếu kém môn vật lý. 3. Đối tượng nghiên cứu Quá trình dạy học bộ môn vật lí tại các lớp: 10A2; 10A3; 10A4; 10A7 của trường THPT Hà Văn Mao 4. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu. II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lý luận Thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung do Bộ GD & ĐT phát động, trong đó có nội dung “Chống bệnh thành tích trong giáo dục” là một trong những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta hiện nay nhằm đánh giá thực chất chất lượng học sinh. Bên cạnh đó cũng phản ánh được chất lượng và hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Những học sinh lên lớp là những học sinh có kiến thức thực sự, xứng đáng đựơc lên lớp. Những học sinh không đảm bảo được yêu cầu sẽ không được lên lớp. Xuất phát từ vấn đề này, chúng ta không thể hiểu theo hướng là vô tư để học sinh yếu kém “ở lại lớp” mà không có trách nhiệm của giáo viên trong đó. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu kém gồm có chủ quan và khách quan mà nếu giáo viên kịp thời quan tâm, giáo dục sẽ giúp cho nhiều học sinh yếu kém tiến bộ và thoát khỏi tình trạng yếu kém. Những học sinh học tập yếu, kém vẫn luôn luôn tồn tại trong giáo dục, tuy nhiên về số lượng học sinh yếu, kém nhiều hay ít là tùy ở từng nhà trường và từng bộ môn. Mức độ tiến bộ của học sinh yếu, kém nhanh hay chậm trong quá trình được giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của riêng mỗi nhà trường, mỗi nhà quản lý giáo dục và mỗi Thầy Cô giáo. Giúp đỡ học sinh yếu kém được gắn với cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động “Hai không” do Bộ GD-ĐT phát động, cương quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong các lần tổ chức kiểm tra - thi cử trong toàn ngành. Giải pháp phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém bộ môn có mục đích nhằm giúp cho học sinh xác định nội dung kiến thức cơ bản, trọng tâm đã tìm hiểu một cách chính xác mà trong giờ học vì một lí do nào đó học sinh chưa nắm bắt được. Khi học sinh đã tiếp thu và vận dụng được kiến thức trong bài học thì sẽ hình thành được sự hứng thú, say mê với môn học. Từ đó các em sẽ xác định cho mình kế hoạch học tập, phương pháp tự học, tự nghiên cứu, có tính độc lập cao trong tư duy nhận thức sẽ thúc đẩy học sinh học tập tiến bộ Phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém là giáo viên phải tìm cách để bổ sung được những “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức cơ bản và trọng tâm trong mỗi bài học có trong sách giáo khoa Vật lý ). Muốn làm tốt nhiệm vụ này thì bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính xác và đánh giá được mức độ kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy để lên được kế hoạch phụ đạo, thiết kế nội dụng tiết học phụ đạo sao cho có hiệu quả nhất. Điều quan trọng ở đây là học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong suy nghĩ và hành động, tích cực phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ, cân nhắc kĩ lưỡng những thông tin nhận được để “ lấp lại lỗ hổng kiến thức” và phải luôn có hành động phản hồi lại kiến thức một cách chính xác, khoa học nhất. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin được trình bày một số nguyên nhân khách quan và chủ quan từ phía các Thầy Cô giáo giảng dạy bộ môn đã làm tăng tỉ lệ học sinh yếu kém và một số biện pháp cụ thể đối với bản thân người giáo viên trực tiếp giảng dạy để giảm bớt tỉ lệ học sinh yếu kém môn Vật lý ở trường THPT hiện nay. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Qua những năm công tác giảng dạy bộ môn Vật lý ở một trường thuộc khu vục miền núi, bản thân tôi xin đưa ra và phân tích những thực trạng và những nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến chất lượng học tập của học sinh yếu kém ở Trường THPT Hà Văn Mao - Bá Thước nói riêng và các trường THPT nói chung sau đây: 2.1. Về phía nhà trường Trường THPT Hà Văn Mao - Bá Thước - là một trong những trường thuộc khu vực miền núi đang còn nhiều khó khăn (thuộc diện 62 huyện nghèo nhất cả nước), đời sống kinh tế cũng như trình độ dân trí còn tương đối thấp, nên vấn đề học tập vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng. Do đó, trường gặp nhiều khó khăn ngay từ khi tuyển đầu vào: chất lượng học sinh tuyển vào vẫn còn thấp, khoảng 50-60% là yếu kém. 2.2. Về phía học sinh - Học sinh chưa tự giác, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm học tập, mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới. Nhiều học sinh đuối sức trong học tập, không theo kịp các bạn, thiếu kiến thức, kỹ năng để học tập ở lớp đang học (ngồi nhầm lớp), sinh ra chán học, sợ học (hội chứng sợ học). Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy khả năng của mình. Nhiều học sinh chưa biết đổi đơn vị, chưa biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết. - Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ thuộc vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không hiểu gì cả ), học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì quay cóp và tài liệu. - Học sinh lười học: Đa số các em không có thời gian cho việc tự học, không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. - Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh. - Một số học sinh đi học thất thường, đến trường nhưng không vào lớp học, đặc biệt học sinh vắng nhiều vào các buổi chiều, ham chơi, la cà quán xá. 2.3. Về phía gia đình học sinh - Đa số Gia đình học sinh là người dân tộc thiểu số làm nghề nông nghiệp nên gặp nhiều khó khăn về kinh tế khiến các em không chú tâm vào học tập, cũng như bố mẹ lo làm lụng suốt ngày không có thời gian quan tâm chú ý đến việc học tập của các em; một số ít phụ huynh trong vùng đi làm ăn xa để con ở nhà một mình hoặc với ông bà già lâu lâu mới về nên việc quan tâm chú ý đến việc học tập của các em và phối hợp giáo dục với nhà trường, với Thầy Cô giáo là rất hạn chế. Bên cạnh đó, có một bộ phận lớn phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô... Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng cha mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém dần đi 2.4. Về phía giáo viên Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Người ta thường nói “ có Thầy hay thì mới có trò giỏi ”. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà điều quan trọng nhất ở đây là người giáo viên phải phân loại và nắm rõ được các nhóm đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để từ đó biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém. Chưa chịu khó tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình và tâm tư tình cảm cũng như những khúc mắc ưu phiền, những lo âu... bên trong đã làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của từng học sinh đưa các em đến tình trạng yếu kém. 2.5. Môi trường xã hội Môi trường xung quanh của nhà trường ngày càng phức tạp, ngày càng nhiều các hàng quán ăn uống, các tụ điểm giải trí như: quán Internet, quán Bi a...tạo nên những cám dỗ lôi cuốn học sinh ăn chơi rồi bỏ học nhiều, tiêu xài tiền bạc dẫn đến trộm cắp tài sản và đánh nhau... 3. Các biện pháp và hình thức tổ chức thực hiện 3.1. Phân loại học sinh yếu kém môn Vật lý - Căn cứ 1: Điểm bộ môn năm học qua, tham khảo thêm điểm một số môn học có liên quan hoặc gần gũi cùng khối như Toán, Hóa. - Căn cứ 2: Điểm khảo sát chất lượng học sinh đầu năm. - Căn cứ 3: Những biểu hiện và quá trình học tập trên lớp, các con điểm hiện tại. Căn cứ vào những khía cạnh trên, tôi chia học sinh yếu kém môn Vật lý thành những nhóm sau: Nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung, không có hoặc có khả năng tiếp thu bài rất thấp. Nhóm 2: Có ý thức học tập, có khả năng tiếp thu bài nhưng chậm so với học sinh bình thường. Nhóm 3: Có kiến thức cơ bản, có ý thức học tập nhưng chưa có phương pháp học tập đúng đắn Nhóm 4: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh lười học. 3.2. Một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém a.Các biện pháp chung - Giáo dục ý thức học tập, hình thành lòng ham thích và say mê môn học cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh ham học, có ý thức vươn lên trong học tập, bằng cách: + Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. + GV phải tăng cường sử dụng triệt để các thí bị thí nghiệm, ĐDDH sẵn có và tự làm trong các bài học, tăng cường cho học sinh làm các thí nghiệm thực hành. Đồng thời, giáo viên dịnh hướng và giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh (đặc biệt là nhóm các học sinh yếu kém) tự làm các thí nghiệm đơn giản và các ĐDDH có trong chương trình học. + Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, đa số các phụ huynh thiếu sự quan tâm đến con cái, bản thân phụ huynh cũng chưa hiểu được tầm quan trọng của việc học tập. Giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. - Giáo viên xây dựng một môi trường học tập thân thiện trong từng tiết dạy của mình: Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những tâm tư tình cảm, những suy nghĩ trong cuộc sống và đặc biệt là những khó khăn trong học tập của bản thân mình. + Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không la mắng nặng lời hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. + Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Giáo viên cần có sự quan tâm, đối với những học sinh có tiến bộ, giáo viên phải nhận ra và động viên kịp thời, có thể nhận xét trực tiếp vào bài làm hoặc khen ngợi trực tiếp trước lớp sau mỗi bài kiểm tra. + Giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh một cuốn sách hay như: “Bách khoa toàn thư về những học trò lười”; Sách kể về những tên tuổi như Einstein, Disney, Darwin và Picassođược thế giới biết đến như những thiên tài nhưng không phải ai cũng biết họ từng là những học sinh lười biếng, không có gì nổi bật khi cắp sách đến trường nhưng họ đã để lại dấu ấn sáng chói trong lịch sử văn minh loài người. Qua những mẩu chuyện này giáo viên muốn gởi tới các em học sinh, các bậc phụ huynh, quí thầy cô, những người luôn có ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm tàng chứ không đơn thuần chỉ đặt niềm tin vào những điểm số nổi bật trong lớp. + Tuy nhiên không phải trong bất kỳ trường hợp nào giáo viên cũng thân thiện, mềm dẻo mà đối với một số đối tượng học sinh, ở một số tình huống cụ thể nào đó, giáo viên cũng cần thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe để đưa các em vào nề nếp, khuôn khổ. Điều quan trọng là giáo viên phải tác động được vào ý thức của học sinh, học sinh hiểu rằng sự nghiêm khắc ấy nhằm mục đích giáo dục, vì bản thân các em, không có sự trù dập hay phân biệt đối xử với học sinh. - Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh: Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. Do đó, để các biện pháp và phương pháp đưa ra đạt được hiệu quả thì người Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp hơn. Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Ví dụ: yêu cầu luyện tập của một tiết là 5 bài tập, các em này có thể dành cho 2-3 bài, còn 2-3 bài mức độ cao hơn dành cho các dối tượng học sinh khá hơn. Ngoài ra, giáo viên có thể đề nghị với nhà trường tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 3 tiết trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải được giáo viên chuẩn bị kỹ, làm sao cho học sinh đi học phụ đạo thấy được rằng việc đi học này có tác dụng, bổ ích, học sinh có khả năng tiếp thu và tiến bộ trong học tập thì côn
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_trong_day_phu_dao_nham_nang_cao_chat.doc