SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPT - DTNT

SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPT - DTNT

 Sinh thời Bác Hồ đã từng nói “ Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”, lịch sử cũng đã chứng minh tầm quan trọng của hai yếu tố tài và đức trong việc hình thành nhân cách con người. Xã hội ngày càng phát triển yêu cầu về sự toàn diện của con người cả về tài lẫn đức ngày càng cao. Đặc biệt, trong xã hội hiện nay vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh là rất quan trọng. Một trong những vấn đề đổi mới GD&ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ GD&ĐT. Luật giáo dục năm 2005 đã xác định “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hoàn thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân ” [1]

doc 25 trang thuychi01 4732
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPT - DTNT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT – DTNT TỈNH THANH HÓA
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TOÀN DIỆN HỌC SINH TRONG TRƯỜNG THPT-DTNT
 Người thực hiện: Trịnh Trúc Ly
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc lĩnh vực : Công tác chủ nhiệm
THANH HOÁ, NĂM 2019
MỤC LỤC
MỤC
 TÊN MỤC
TRANG
I
 MỞ ĐẦU
1-3
1
Lý do chọn đề tài
1-2
2
Mục đích nghiên cứu
2
3
Đối tượng nghiên cứu
3
4.
Phương pháp nghiên cứu
3
II
NỘI DUNG SKKN
4-18
1
Cơ sở lý luận
4-6
2
Đặc điểm tình hình lớp
7-8
3
Mặt mạnh, mặt yếu
8-9
4
Thực trạng vấn đề
9-10
5
Các nguyên nhân, yếu tố tác động
10-11
6
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
11-16
7
Hiệu quả của SKKN đối với HĐGD của bản thân và đồng nghiệp
16-18
V
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
19-20
LỜI CAM ĐOAN
 Tôi xin cam đoan SKKN này không trùng lặp với các SKKN khác và các công trình nghiên cứu đã công bố. Các số liệu sử dụng trong SKKN này là kết quả tổng hợp của tôi qua các năm tôi làm chủ nhiệm.
 Tác giả đề tài:
 Trịnh Trúc Ly
DANH MỤC VIẾT TẮT
1. CN: Chủ nhiệm.
2. KTX: Ký túc xá.
3. GVBM: Giáo viên bộn môn.
4. GVCN: giáo viên chủ nhiệm.
5. TTN: Thanh thiếu niên.
6. THPT-DTNT: Trung học phổ thông Dân tộc nội trú.
7. QL KTX: Quản lý ký túc xá.
8. HS: học sinh.
9. BGH: Ban giám hiệu.
10. SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm.
Tài liệu tham khảo: 
 [1]. Luật Giáo dục năm 2005.
 [2]. Kỷ yếu hội thảo công tác chủ nhiệm ở trường DTNT.
 ( Tháng 10-2009)
[3].  Chuyên đề phòng chống tội phạm học đường.
 ( HCM – EDU)
[4]. Vấn đề bạo lực học đường và các giải pháp khắc phục
 (Vgbc.org.vn)
I. MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
 Sinh thời Bác Hồ đã từng nói “ Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”, lịch sử cũng đã chứng minh tầm quan trọng của hai yếu tố tài và đức trong việc hình thành nhân cách con người. Xã hội ngày càng phát triển yêu cầu về sự toàn diện của con người cả về tài lẫn đức ngày càng cao. Đặc biệt, trong xã hội hiện nay vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh là rất quan trọng. Một trong những vấn đề đổi mới GD&ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ GD&ĐT. Luật giáo dục năm 2005 đã xác định “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hoàn thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân” [1]
 Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mặt tích cực tuy nhiên còn phát sinh nhiều vấn đề mà chúng ta cần quan tâm : Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, những luồng tư tưởng mới cũng du nhập vào reo rắc lối sống tự do tư sản, làm sói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay một bộ phận Thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong qua hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, thiếu ý chí, dễ bị lôi kéo, bị cuốn vào những việc xấu, tệ nạn xã hội,. Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội đã đem đến cho quá trình sống, học tập và rèn luyện của học sinh (HS) ngày càng nhiều cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất lợi đối với sự phát triển nhân cách các em. Nhu cầu được hỗ trợ về mặt tinh thần để phát triển thuận lợi nhất ngày càng trở nên cấp bách hơn đối với thế hệ trẻ. Bên cạnh đó một số cán bộ quản lý, giáo viên chưa thực sự là tấm gương sáng cho học sinh, chỉ lo chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức khoa học mà thờ ơ không chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh.
 Trường THPT – DTNT Tỉnh Thanh Hóa là nơi con em đồng bào các dân tộc thiểu số của 11 huyện miền núi Thanh hóa về đây sinh sống và học tập. Các em xa gia đình, xa bố mẹ xa vòng tay ấm áp yêu thương trong độ tuổi rất nhạy cảm. Chính vì vậy thầy cô giáo, đặc biệt là GVCN của lớp đóng vai trò là người cha, người mẹ, là người anh, người chị và là những người bạn của các em, chăm sóc các em, bảo vệ các em như chính con mình. Một tập thể lớp có vững mạnh hay không phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức, quản lý mọi hoạt động của GVCN. Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của GVCN trong công tác giáo dục toàn diện học sinh trong Trường DTNT. Để làm tốt công tác chủ nhiệm không đơn giản và dễ dàng, nhưng với tinh thần làm việc : “ Tất cả vì học sinh thân yêu”, các thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm đã vượt lên chính mình bằng tấm lòng nhiệt huyết, yêu nghề, yêu trò luôn phấn đấu không ngừng. GVCN thực sự là người thắp sáng ước mơ cho các em, chuẩn bị hành trang cho các em bước vào đời, sau nhiều năm tham gia công tác chủ nhiệm lớp và luôn muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác chủ nhiệm, nay tôi mạnh dạn đưa ra “ Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPT- DTNT ”.
2. Mục đích nghiên cứu.
– Thấy được tầm quan trọng của GVCN trong quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh ở trường THPT nói chung và trường THPT-DTNT nói riêng, từ đó tìm hiểu các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giáo dục toàn diện học sinh, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mà nhà trường đặt ra trong thời kỳ mới.
3. Đối tượng nghiên cứu.
 - Tập trung nghiên cứu “ Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện học sinh trong trường THPT- DTNT ”.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- PP thống kê, xử lý số liệu.
II. NỘI DUNG SKKN.
1. Cơ sở lý luận.
 Nhiệm vụ giáo dục toàn diện học sinh không chỉ là nhiệm vụ của nhà trường mà còn là nhiệm vụ của cha mẹ học sinh, nhiệm vụ của toàn xã hội. Công tác CN trong trường THPT - DTNT có vị trí quan trọng, đòi hỏi ở người thầy có trình độ chuyên môn giỏi, có phương pháp giáo dục tốt, có tình cảm trong sáng, say mê công việc, yêu nghề, yêu trò, thắp sáng ước mơ cho các em. Biết tổ chức các phong trào thi đua trong mỗi cá nhân, mỗi tập thể để tạo động lực phấn đấu vươn lên cho học sinh. Không có giáo án, không công thức, không có bài giảng mẫu, song mỗi GVCN đều tìm cho mình một cách hợp lý để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra. Chính vì vậy GVCN trong Trường THPT- DTNT có vai trò hết sức quan trọng [2]:
 - GVCN thay mặt nhà trường quản lý điều hành mọi công việc của lớp. Xây dựng cho lớp có kế hoạch hoạt động cụ thể, giúp cho các em có nghị lực phấn đấu vươn lên đạt được mục đích ước mơ của mình
- GVCN là người gần gũi chăm lo giáo dục giúp đỡ các em vươn lên trong cuộc sống, đồng thời là người chăm sóc, bảo vệ học sinh.
- GVCN là cầu nối giữa tập thể học sinh, phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của học sinh với nhà trường, đồng thời GVCN cũng là cầu nối giữa các môi trường giáo dục: Gia đình, nhà trường và xã hội.
Với những vai trò quan trọng nêu trên, giáo viên chủ nhiệm lớp cần có phẩm chất, năng lực tốt, tổ chức, điều hành mọi hoạt động của lớp và làm tốt một số nhiệm vụ sau:
1. Giáo viên chủ nhiệm, trước hết phải mẫu mực về đạo đức, tác phong, ứng xử, có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, hết lòng vì học sinh, thực sự là tấm gương sáng để học sinh noi theo.
2. Phải nắm vững nhiệm vụ, kế hoạch của nhà trường để chỉ đạo học sinh của lớp mình thực hiện theo yêu cầu, kế hoạch đề ra. Triển khai và thực hiện tốt các cuộc vận động của Đảng, Nhà nước, của Ngành như: Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Hai không”; “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” Với tư cách là nhà sư phạm, GVCN có trách nhiệm truyền đạt tới học sinh tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường bằng sự thuyết phục, cảm hóa, để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự giác, tự nguyện. Với kinh nghiệm sư phạm của mình, GVCN phải biến những chủ trương, kế hoạch của nhà trường thành chương trình hành động của mỗi học sinh, làm cho các em tự giác và say mê học tập, rèn luyện.
3. Cần nghiên cứu đặc điểm tâm lí, nhận thức của học sinh dân tộc thiểu số để có nội dung, biện pháp giáo dục phù hợp. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp nhiệt tình có trách nhiệm, có uy tín với bạn bè, có khả năng điều hành, làm nòng cốt trong các hoạt động của lớp. Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò cố vấn, quan sát, giúp đỡ, uốn nắn các hoạt động của học sinh.
4. GVCN phải biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất mọi hoạt động phù hợp với yêu cầu của lớp, của trường, từng tháng, từng học kỳ và cả năm học.
5. Phải giáo dục học sinh toàn diện: Từ tư tưởng, đạo đức, nhân cách, kỹ năng sống đến truyền đạt kiến thức cho các em. Trong đó, giáo dục tư tưởng là quan trọng vì các em có nhận thức đúng về trách nhiệm học tập, rèn luyện mới tự giác, có khả năng vượt khó, mang lại hiệu quả trong học tập và rèn luyện. Công việc này đòi hỏi GVCN phải làm thường xuyên, liên tục vì ở lứa tuổi các em suy nghĩ chưa chín chắn, thiếu kinh nghiệm, rất dễ bị lôi kéo bởi những cám dỗ đời thường. Tuy nhiên ở lứa tuổi của các em đang muốn khẳng định mình, giàu ước mơ, hoài bão, GVCN khéo động viên, có nghệ thuật giáo dục rất dễ kích thích tư duy sáng tạo, phát triển tiềm năng trí tuệ vốn có của các em.
6. Phải chăm sóc học sinh như người cha, người mẹ thứ hai của các em. Các em đến trường hầu hết ở độ tuổi 15, 16, độ tuổi đang rất cần vòng tay nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ mà cuộc sống tập thể nội trú là một gia đình lớn, có rất nhiều vướng mắc cần giải quyết. Chỉ bằng tấm lòng, tình thương của cha mẹ, giáo viên chủ nhiệm mới vượt lên chính mình để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn đó, còn học sinh luôn được chở che, được chăm sóc đầy đủ và yên tâm học tập.
7. Kết hợp với các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài trường để cùng giáo dục học sinh, đây là nguyên tắc trong giáo dục nhằm thực hiện tốt chức năng phối hợp, khép kín quá trình giáo dục về không gian, thời gian tác động đến học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
8. Liên hệ mật thiết với gia đình để cùng giáo dục học sinh. Gia đình nơi các em sinh ra, lớn lên và đã được sự giáo dục, giáo viên cần liên hệ với gia đình để có thêm thông tin chính xác về học sinh, kết hợp để cùng giáo dục học sinh, thông báo kết quả học tập, rèn luyện của học sinh đến gia đình định kỳ hoặc đột xuất.
9. Định hướng cho học sinh chọn nghề trong tương lai. Do điều kiện ở vùng khó khăn, các em và gia đình thiếu thông tin cần thiết về nghề nghiệp. Giáo viên chủ nhiệm là người biết rõ khả năng của các em, giáo viên chủ nhiệm cần tư vấn để các em chọn nghề phù hợp với khả năng của bản thân và nhu cầu của xã hội.
10. GVCN có trách nhiệm nắm vững tình hình của lớp về mọi mặt, báo cáo cho BGH biết theo định kỳ hoặc đột xuất những vấn đề cần thiết để nhà trường có hướng giải quyết kịp thời. Chịu trách nhiệm trước nhà trường về chất lượng giáo dục của lớp chủ nhiệm.
 Với tinh thần làm việc: “Tất cả vì học sinh thân yêu” để các em luôn cảm nhận được “ Trường là nhà, miền núi là quê hương, các dân tộc là anh em ruột thịt”, GVCN thực sự là người thắp sáng ước mơ cho các em bay cao, bay xa tới những chân trời mới, góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp trồng người cho đất nước, tô thắm trang sử truyền thống vẻ vang của dân tộc.
2. Đặc điểm tình hình lớp.
2.1. Thuận lợi.
 Trong những năm gần đây, giáo dục luôn được sự quan tâm của tất cả các cấp các ngành cũng như toàn xã hội. Trong các nhà trường nói chung và trường THPT – DTNT nói riêng, công tác CN đã được thực sự chú trọng việc sắp xếp, phân công công tác GVCN đầu năm học, chú trọng đến những giáo viên trẻ, nhiệt huyết, giáo viên có năng lực và giàu kinh nghiệm làm công tác CN lớp nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh.
 BGH nhà trường đã phối kết hợp với các bộ phận khác trong nhà trường nhằm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên trong công tác chủ nhiệm của giáo viên. Phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục là nhà trường, gia đình và xã hội. 
 Đa số phụ huynh đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục, đặc biệt là giáo dục con em các dân tộc thiểu số trong hành trình đi tìm tri thức. Họ đã có ý thức tự giác, có thái độ tích cực trong việc giáo dục con em mình . Đây là điều rất cần thiết góp phần quyết định thành công của GVCN, của nhà trường.
 Các em ăn ở, sinh hoạt và học tập tại trường cũng là một trong những thuận lợi rất lớn trong việc tổ chức các câu lạc bộ nhằm phát triển toàn diện như: CLB “ em yêu Vật lý”, CLB “ Tiếng anh”, phát triển năng khiếu như CLB guitar, CLB khiêu vũ, tham gia chơi các môn thể thao như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, bóng chuyền, võ Vovina các hoạt động VH – VN - TDTT cũng được thường xuyên tổ chức tạo ra một sân chơi lành mạnh cho các em.
2.2. Khó khăn.
 Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của học sinh trường DTNT là các em sống xa gia đình, người thân, bạn bè trong lứa tuổi quan trọng nhất phát triển và hoàn thiện nhân cách. Trong thực tế vẫn còn tình trạng nhận thức chưa đúng đắn, chưa phù hợp trong việc, coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp, chưa tập trung rèn luyện, đổi mới phương pháp, kĩ năng trong  công tác chủ nhiệm lớp. Trong khi đó mục tiêu giáo dục của nước ta không chỉ giáo dục con người có tri thức mà còn cần đào tạo con người, đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ, và kỹ năng sống có thể đáp ứng  yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển đất nước trong thời kì CNH – HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
 Một số phụ huynh học sinh vì lí do điều kiện kinh tế còn khó khăn, ở vùng biên giới xa xôi, hoặc đi làm ăn xa, gia đình không hạnh phúc,  nên việc giáo dục con cái của họ là “Trăm sự nhờ thầy”. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến việc dạy học và giáo dục của thầy cô ở trường, làm cho việc dạy học và giáo dục trở nên khó khăn hơn, kém hiệu quả hơn.
 3. Mặt mạnh – mặt yếu.
3.1. Mặt mạnh.
 Đã nhiều năm làm GVCN lớp, phần nào đã có chút ít kinh nghiệm nhưng tôi vẫn thấy công việc của một GVCN lớp ở trường THPT –DTNT mỗi năm luôn là ẩn số rất khó khăn, rất phức tạp. Mỗi giáo viên muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì phải vừa là một giáo viên giỏi về chuyên môn, vừa phải là một nhà tâm lí giỏi để hiểu học sinh, để xử lí các tình huống rắc rối sao cho khéo léo, tế nhị và đạt hiệu quả giáo dục cao. Nếu giáo viên không tâm huyết với nghề, không có tinh thần trách nhiệm cao thì khó mà hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì hiểu rõ điều đó nên trong những năm học qua, cùng với việc giảng dạy tốt các môn học theo qui định, tôi luôn cố gắng phấn đấu làm tốt vai trò, nhiệm vụ của một GVCN lớp.      
 3.2. Mặt yếu:
 Là HS ở lứa tuổi từ 15 đến 18 tuổi, lứa tuổi đang có sự chuyển biến rõ rệt trong quá trình hình thành nhân cách . Ở lứa tuổi này, các em đã có nhiều thay đổi về nhận thức, về tâm sinh lí, tình cảm và cả các mối quan hệ xã hội. Nhiều em đang trong giai đoạn của tuổi dậy thì. Các em rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ, bị xâm hại,Nhưng các em vẫn chưa chuẩn bị đủ những kỹ năng cần thiết để phòng, tránh, chưa biết tự bảo vệ mình trước những cám dỗ đời thường. Vì vậy, các em rất cần được GD tư tưởng và rèn luyện kĩ năng sống để tự tin hơn trong cuộc sống.
 4. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
- Cùng với sự phát triển của kinh tế, những vấn đề xã hội nảy sinh ngày càng nhiều. Trong đó, vấn đề trong học đường đang là mối bận tâm lớn, cần được quan tâm và cần có những biện pháp giải quyết thiết thực.
4.1. Vấn đề xã hội nóng nhất hiện nay : bạo lực học đường
 Thực tế, trong trường THPT- DTNT không có những vụ bạo lực học đường nghiêm trọng như chia sẻ trên mạng, trên những phương tiện thông tin đại chúng. Các vụ việc học sinh đánh nhau trong nhà trường ngày chỉ mang tính chất khóa trước hỏi thăm, bắt nạt khóa sau. Nhưng những hành vi bạo lực học đường gây nhiều hệ lụy nghiêm trọng, đặc biệt là ám ảnh tinh thần của đối tượng bị hại. Hành vi này cũng ảnh hưởng đến thái độ học tập của học sinh, thầy cô cũng như hoạt động giáo dục của nhà trường nói riêng.
4.2. Những vấn đề nóng hiện nay: Tình yêu tuổi học trò
 Nếu như trước đây, tính yêu học trò được xem là thứ tình cảm trong sáng và ngây thơ thì hiện nay tình yêu học trò không còn giữ đúng bản chất của nó. Đây không còn là những rung động đầu đời bồng bột mà còn là trào lưu của giới trẻ hiện nay. Cùng với sự phát triển của mạng Internet, học sinh được tiếp xúc với những hình ảnh và thông tin đa chiều từ mạng xã hội, dẫn đến tình trạng đi quá giới hạn, gây ảnh hưởng đến học hành, sức khỏe cũng như đời sống tinh thần cho các em. Điều này cho thấy diễn biến phức tạp và mức độ trầm trọng của tình yêu học trò hiện nay. Đây cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Đồng thời, cần triển khai và thực hiện công tác giáo dục giới tính trong nhà trường, giúp học sinh nắm bắt được những kiến thức sức khỏe- giới tính.
4.3. Vấn đề XH được quan tâm nhất hiện nay: Vấn đề trầm cảm
 Đây cũng là một vấn đề nan giải trong nhà trường hiện nay. Trầm cảm là hiện tượng học sinh cảm thấy mệt mỏi và chán nản, không có hứng thú học tập cũng như giao tiếp bạn bè và xúc tiến những mối quan hệ xã hội. Hiện tượng trầm cảm của học sinh ngày càng có diễn biến phức tạp, thậm chí, có những học sinh vì vượt quá sức chịu đựng của bản thân đã dẫn tới tự tử hay nhiều hệ lụy đáng tiếc khác.
Nguyên nhân của thực trạng này rất nhiều nhưng một trong những nguyên nhân đó là do những áp lực và tổn thương về mặt tâm lý cho các em. Đó cũng là do áp lực học tập, mối quan hệ không tốt giữa thầy cô và bạn cùng lớp. Ngoài ra thì đó cũng do nguyên nhân xã hội  hay tâm sinh lý của trẻ phát triển không bình thường.
4.4. Vấn đề nóng hiện nay: Vấn đề phòng chống tệ nạn xã hội trong học đường
 Hiện nay, tệ nạn học đường xuất hiện ngày càng nhiều và phổ biến, đem đến nhiều ảnh hưởng đến học sinh, gia đình và xã hội nói chung. Chính vì thế, những chuyên gia giáo dục cho rằng, ngành giáo dục cần tăng cường công tác giáo dục toàn diện cũng như quản lý học sinh, đảm bảo an ninh trật tự trong trường học và phòng chống tệ nạn xã hội.
5. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
5.1. Về phía giáo viên.
– Trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên rất khó khăn trong việc phân loại đối tượng học sinh vì học sinh trong lớp tham gia rất nhiều khối thi.
– Trong quá trình làm chủ nhiệm lớp, giáo viên chưa quan tâm được nhiều đến hoàn cảnh gia đình của từng em, các em ở nhiều huyện khác nhau và rất xa, điều kiện kinh tế còn rất khó khăn nhiều em trong hộ nghèo và cận nghèo của các huyện miền núi, các em chủ yếu sống ở vùng 30A, hoặc vùng 135.
– Việc nắm bắt tâm lý của các em, tâm tư tình cảm của các em đôi khi còn chậm, việc giải quyết vấn đề đôi khi còn theo tình cảm cá nhân. 
 5.2. Về phía học sinh.
– Một số học sinh chưa xác định động cơ học tập đúng đắn nên chưa chăm học, hay vi phạm nội quy, quy định của nhà trường, nhất là trong việc thực hiện nội quy nội vụ trong KTX, việc thực hiện nội quy học đường .
– Chưa nắm được phương pháp học tập và mất căn bản kiến thức ở lớp dưới.
– Do các em ăn ở, học tập xa gia đình nên nhiều cha mẹ chưa quan tâm đúng mức đến việc học của các em, còn khoán trắng cho nhà trường. Bên cạnh đó các trò chơi vô bổ như: điện tử, lén sử dụng điện thoại di động, đã trực tiếp tác động làm ảnh hưởng không ít đến việc học tập và rèn luyện của các em.
– Một số em lại sa vào chuyện tình cảm của tuổi học trò làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập rèn luyện của bản thân.
– Chất lượng học sinh trong lớp không đồng đều.
6. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
 Mỗi GVCN lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Do vậy, ngay từ ngày đầu nhận lớp, tôi thực hiện ngay công tác điều tra thông qua phiếu sau đây và yêu cầu các em điền đầy đủ các thông tin trong phiếu:
GIỚI THIỆU LÝ LỊCH BẢN THÂN
1. Họ và tên học sinh: 
2. Quê quán:
3. Hoàn cảnh gia đình : - Họ và tên bố, mẹ: - Nghề nghiệp:
 - Anh chị em ruột: - Hình thức liên lạc với gia đình:
4. Năng 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_trong_cong_tac_chu_nhiem_nham_nang_c.doc
  • docBia sang kien kinh nghiem.doc