SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2

SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2

Mục tiêu của giáo dục Tiểu học là “Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt( nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi”, môn Tiếng Việt bậc Tiểu học lấy nguyên tắc dạy học giao tiếp làm định hướng cơ bản. [2]

Trong giáo dục phổ thông nói chung và trường Tiểu học nói riêng, môn Tiếng Việt là một môn quan trọng chiếm vị trí chủ yếu trong trương trình. Môn này có đặc trưng cơ bản vừa là môn học cung cấp cho học sinh một khối lượng kiến thức cơ bản nhằm đáp ứng được những mục tiêu, nhiệm vụ của từng môn học vừa là công cụ để học tập các môn học khác. [6]

Phân môn Tập đọc rèn cho HS các kĩ năng đọc( đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc, phân môn Tập đọc cung cấp cho HS những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học( như đề tài, cốt truyện, nhân vật, ) và góp phần rèn luyện nhân cách cho HS. [2]

Môn Tập đọc là một phân môn có tầm quan trọng to lớn với bậc Tiểu học, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học khác. Trong năng lực hoạt động ngôn ngữ ở con người thể hiện ở kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Như vậy kĩ năng đọc là một trong bốn kĩ năng hoạt động của ngôn ngữ. Đặc biệt ở Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng, kĩ năng đọc có ý nghĩa rất sâu sắc, đọc để nắm được ý chính của đoạn văn, biết đặt đầu đề cho đoạn văn, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật hoặc chi tiết trong bài học. Môn này giúp học sinh trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Muốn học giỏi thì trước hết phải đọc thông, viết thạo thì các em mới nắm được nội dung bài. Từ đó các em mới cảm thụ được cái hay, cái đẹp, suy luận, tìm tòi để làm bài được tốt. [4]

Môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng, trong các giờ tập đọc, học thuộc lòng học sinh biết đọc trôi chảy một đoạn văn, đoạn đối thoại,bài văn ngắn, bài thơ. Bước đầu biết đọc thầm bài văn, bài thơ. Hiểu được ý chính của đoạn, bài. Qua đó tạo cho các em sự say mê, hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể hỗ trợ cho trẻ học tốt các môn học khác. Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống. Hình thành lòng ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình yêu tiếng Việt. Giờ Tập đọc ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, biết chia đoạn để phát triển óc phân tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện tư duy và phong cách sống. Môn Tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương trình Tiếng việt qua các bài văn chọn lọc, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Học môn Tập đọc, việc đọc và hiểu là 2 khâu có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó, hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc tốt. Ngược lại việc đọc tốt giúp cho việc hiểu bài thêm sâu sắc. Để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy của phân môn này.

 

doc 20 trang thuychi01 10551
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
	Mục tiêu của giáo dục Tiểu học là “Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt( nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi”, môn Tiếng Việt bậc Tiểu học lấy nguyên tắc dạy học giao tiếp làm định hướng cơ bản. [2]
Trong giáo dục phổ thông nói chung và trường Tiểu học nói riêng, môn Tiếng Việt là một môn quan trọng chiếm vị trí chủ yếu trong trương trình. Môn này có đặc trưng cơ bản vừa là môn học cung cấp cho học sinh một khối lượng kiến thức cơ bản nhằm đáp ứng được những mục tiêu, nhiệm vụ của từng môn học vừa là công cụ để học tập các môn học khác. [6]
Phân môn Tập đọc rèn cho HS các kĩ năng đọc( đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc, phân môn Tập đọc cung cấp cho HS những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học( như đề tài, cốt truyện, nhân vật,) và góp phần rèn luyện nhân cách cho HS. [2]
Môn Tập đọc là một phân môn có tầm quan trọng to lớn với bậc Tiểu học, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học khác. Trong năng lực hoạt động ngôn ngữ ở con người thể hiện ở kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Như vậy kĩ năng đọc là một trong bốn kĩ năng hoạt động của ngôn ngữ. Đặc biệt ở Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng, kĩ năng đọc có ý nghĩa rất sâu sắc, đọc để nắm được ý chính của đoạn văn, biết đặt đầu đề cho đoạn văn, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật hoặc chi tiết trong bài học. Môn này giúp học sinh trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Muốn học giỏi thì trước hết phải đọc thông, viết thạo thì các em mới nắm được nội dung bài. Từ đó các em mới cảm thụ được cái hay, cái đẹp, suy luận, tìm tòi để làm bài được tốt. [4]
Môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng, trong các giờ tập đọc, học thuộc lòng học sinh biết đọc trôi chảy một đoạn văn, đoạn đối thoại,bài văn ngắn, bài thơ. Bước đầu biết đọc thầm bài văn, bài thơ. Hiểu được ý chính của đoạn, bài. Qua đó tạo cho các em sự say mê, hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể hỗ trợ cho trẻ học tốt các môn học khác. Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống. Hình thành lòng ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình yêu tiếng Việt. Giờ Tập đọc ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm nội dung để phát triển óc tổng hợp, biết chia đoạn để phát triển óc phân tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện tư duy và phong cách sống. Môn Tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương trình Tiếng việt qua các bài văn chọn lọc, học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng, sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Học môn Tập đọc, việc đọc và hiểu là 2 khâu có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó, hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc tốt. Ngược lại việc đọc tốt giúp cho việc hiểu bài thêm sâu sắc. Để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy của phân môn này.
Việc dạy đọc bên cạnh những thành công còn có những hạn chế: Học sinh chưa đọc được như ta mong muốn, đọc chưa đúng ở những chỗ ngắt nhịp vì các em chưa hiểu được nội dung câu thơ, câu văn nên các em ngắt nghỉ không đúng với nội dung biểu cảm của tác giả. Học sinh chưa hiểu cách nói văn chương, các em thường ngắt giọng giữa chừng, các em chưa biết phân biệt chỗ nào cần lên giọng, chỗ nào cần xuống giọng. Khi đọc câu hỏi, giọng đọc các em còn đều đều chưa toát lên được nội dung câu hỏi. Khi đọc các câu hội thoại các em chưa phân biệt được giọng của nhân vật, giọng của tác giả. Giáo viên Tiểu học còn lúng túng các bước khi dạy tập đọc theo chương trình mới, vận dụng quy trình còn máy móc, dạy còn theo sách giáo viên, sách thiết kế bài soạn chứ không chú ý đến đặc thù của địa phương. Cần đọc bài tập đọc như thế nào, làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh, làm thế nào để các em đọc đúng, đọc nhanh hơn, diễn cảm hơn. Làm sao để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu, Đó là những trăn trở của giáo viên trong mỗi giờ Tập đọc. Từ thực trạng đó nên dẫn đến giờ dạy hiệu quả chưa cao mà trong chương trình chưa có hướng dẫn cụ thể, chưa đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy. Vì thế tôi băn khoăn, trăn trở và mạnh dạn chọn nghiên cứu viết SKKN " Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2". 
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
- Tìm hiểu yêu cầu nhiệm vụ và thực trạng dạy học của phân môn Tập đọc lớp 2.
- Đưa ra một số kinh nghiệm giúp học sinh rèn kĩ năng đọc tốt hơn, qua đó nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đề tài được nghiên cứu ứng dụng trực tiếp đối với 32 học sinh lớp 2C trường Tiểu học Quảng Lộc, Quảng Xương, trong năm học 2017 - 2018 (lớp tôi chủ nhiệm) và 33 học sinh lớp 2B (lớp đối chứng).
- Nghiên cứu về các giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tôi đã sử dụng một số phương pháp.
- Phương pháp nghiên cứu, lí luận.
Tìm đọc, phân tích, thu thập các vấn đề về lí luận dạy học liên quan đến vấn đề nghiên cứu. 
- Phương pháp điều tra quan sát, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Tôi tiến hành điều tra ở hai lớp: lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để nắm được kĩ năng đọc của HS trước và sau khi thực hiện các giải pháp.
- Phương pháp thực nghiệm và đối chứng kết quả.
Từ những kết quả thực nghiệm và đối chứng, bản thân đã đánh giá, nhận xét và phân tích số liệu để làm cơ sở đưa ra những nhận định và kết luận sát thực.
- Phương pháp đàm thoại, vấn đáp, trắc nghiệm.
Trực tiếp đàm thoại với đồng nghiệp, học sinh để tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong quá trình dạy và học. Lấy phiếu trắc nghiệm để kiểm tra kĩ năng đọc hiểu của HS.
- Phương pháp luyện tập thực hành.
	Tiến hành thực hành soạn, dạy theo định hướng của những kinh nghiệm đưa ra.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
a. Vị trí, vai trò của phân môn Tập đọc. 
 Phân môn Tập đọc có vị trí rất quan trọng trong chương trình Tiểu học nói chung. Tập đọc là bài học khởi đầu giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, chiếm lĩnh công cụ (nghe, nói, đọc, viết). Dạy Tập đọc còn trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của HS về cuộc sống, đồng thời bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng , tình yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống; hứng thú đọc sách và yêu sách tiếng Việt, từ đó mở rộng cánh cửa cho học sinh nắm lấy kho tàng tri thức của loài người.
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy) đọc hiểu và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng khác. [2]
	- Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại nếu không hiểu điều đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi, khó mà nói được rạch ròi kỹ năng nào làm cơ sở cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng, hay chính nhờ hiểu đúng mới đọc đúng. Vì vậy trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào.
	- Thông qua việc dạy đọc, làm cho học sinh thích đọc và thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
	- Đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên cạnh nhiệm vụ rèn kỹ năng đọc, phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ:
	+ Làm giàu và tích cực hóa vốn kiến thức ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh.
	+Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống, hình thành một số kĩ năng phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản thân.
	+ Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản.
	+ Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
Quá trình dạy học gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau: Hoạt động dạy học của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy với hai chức năng truyền đạt và chủ đạo tổ chức. Học sinh là đối tượng (khách thể) của hoạt động dạy nhưng lại là chủ thể của hoạt động học tập với hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức.
Hoạt động học tập của học sinh chỉ có thể đạt hiệu quả nếu học sinh tiến hành các hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ nhận thức sâu sắc. Bằng hoạt động học tập, mỗi học sinh tự hình thành và phát triển nhân cách của mình mà không ai có thể làm thay được.
Dạy học là con đường thuận lợi nhất, giúp học sinh trong khoảng thời gian ngắn nhất, có thể nắm được một khối lượng kiến thức cần thiết. Nó được tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch, giúp học sinh phát triển một cách có hệ thống, năng lực hoạt động trí tuệ và tư duy sáng tạo. Từ đó giúp học sinh có hành động đúng đắn trong học tập. [4]
b. Cơ sở thực tiễn.
Khi tiến hành làm đề tài này tôi đã nghiên cứu sách giáo khoa phân môn Tập đọc 2 để tìm hiểu nội dung, cấu trúc của chương trình, tìm hiểu việc học của các em, tìm hiểu các tài liệu hướng dẫn của ngành, nghiên cứu rút kinh nghiệm qua từng tiết dự giờ. Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến môn Tiếng Việt nhất là phân môn Tập đọc. 
Tìm hiểu đội ngũ giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp gì? Những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong quá trình rèn đọc cho học sinh.
Thường xuyên dự giờ của giáo viên dạy khối 2; 3 để rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học nhất là phân môn Tập đọc.
+ Học sinh: Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học còn nhỏ, tự giác trong học tập chưa cao, trình độ đọc còn yếu( do các em mới từ lớp 1 lên), đọc phát âm theo tiếng địa phương nhiều. Đa số HS chưa có ý thức trau dồi vốn từ, ít đọc sách, ít luyện nói.Một bộ phận không nhỏ HS có bố mẹ đi làm ăn xa để ở nhà cho ông bà nên ông bà không biết dạy cháu đọc.
+ Giáo viên: Phần luyện đọc nhiều giáo viên cho là dễ, nhưng thực chất đây là phần khó nhất, phần trọng tâm của bài giảng. Ở khâu này, giáo viên ít mắc lỗi về thao tác kĩ thuật nhưng lại không biết dạy như thế nào để phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh, chưa chú ý đến tốc độ đọc của các em theo yêu cầu về kiến thức và kĩ năng cơ bản phù hợp với từng khối lớp. Hơn nữa có một số giáo viên thường sử dụng các ngôn từ, phát âm mang nhiều nét riêng của các địa phương, nhiều GV chưa chú trọng đến việc phát âm tiếng Việt theo chuẩn tiếng phổ thông. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Đặc điểm tình hình
* Địa phương, phụ huynh.
-Thuận lợi: Địa phương tuy còn nghèo nhưng rất quan tâm đến giáo dục, nhiều phụ huynh rất quan tâm đến việc học của con em mình.
-Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên, không thể không nói đến những khó khăn:
+Địa phương nơi tôi công tác là một xã thuần nông, nền kinh tế người dân còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy trong xã có rất nhiều người dân phải đi làm ăn xa nên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập của các em. Nhiều gia đình không quan tâm đến việc học tập của con em mình, giao phó cho ông bà hoặc có tư tưởng khoán trắng cho nhà trường.
* Nhà trường, học sinh. 
-Thuận lợi: BGH nhà trường thường xuyên quản lý sát sao và có kế hoạch hoạt động phù hợp, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho việc Dạy - Học của giáo viên và học sinh. Trường có số lượng hơn 500 em, số HS ở các lớp không quá đông nên thuận lợi cho GV quan tâm các em nhiều hơn.
-Khó khăn:+Nhà trường: Điều kiện cơ sở vật chất của trường còn nhiều thiếu thốn: chưa có các phòng chức năng cho học sinh, bàn ghế ngồi học còn chưa đúng quy cách, một số GV chuyển từ cấp hai xuống nên việc tiếp cận phương pháp dạy học Tiếng Việt còn hạn chế. 
+Về HS: Việc học Tiếng Việt của các em còn hạn chế, nhất là nhiều học sinh còn đọc sai, phát âm không đúng và còn sai lỗi phát âm địa phương. Các em còn tiếp thu bài một cách thụ động. Các em ngại đọc nhiều lần.
2.2.2. Thực trạng dạy học Tập đọc của các trường Tiểu học.
* Về phía giáo viên.
-	Một số giáo viên chưa thực sự chú ý đến vai trò của đọc mẫu, đọc diễn cảm trong quá trình dạy Tập đọc.
- Việc lựa chọn từ và giải nghĩa từ của giáo viên còn rập khuôn (bám sát từ ở phần chú giải trong SGK).
- Chưa phân biệt lựa chọn từ mới để cung cấp cho nội dung bài.
- Vẫn còn nhiều giáo viên đọc bài, giao tiếp còn sử dụng tiếng địa phương nên chưa sửa sai được cho học sinh.
- Việc sử dụng đồ dùng còn hạn chế, giáo viên còn dạy "chay", chưa coi những phương tiện trực quan là cần thiết trong việc luyện đọc,... Vì thế việc đọc đúng, đọc hay của học sinh còn hạn chế.
* Về học sinh.
Học sinh mới từ lớp 1 lên nên chỉ mới biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ và đọc chưa đúng các phụ âm khó. Bên cạnh đó, đọc hiểu, nắm nội dung bài còn khó hơn. Qua khảo sát chất lượng đầu năm kết quả cho thấy: hầu hết các em đọc còn chậm. Khi đọc còn ngắt, nghỉ chưa hợp lí, đọc ê a, ngắc ngứ, thậm chí một số em còn phải đánh vần để đọc từng chữ .
Thực trạng của nhiều học sinh đọc kém có nhiều nguyên nhân dẫn đến. Một số em đến lớp không tập trung chú ý nghe giảng, chưa chịu khó luyện đọc, đi học chưa chuyên cần, phụ huynh không kiểm tra, nhắc nhở con em học tập ở nhà, một số HS chậm phát triển về trí tuệ. Tất cả những điều trên đã dẫn đến kết quả học tập của đa số học sinh là chưa cao. Nhất là phân môn Tập đọc, các em chỉ biết đọc, chứ đọc chưa đúng, chưa hay.
Từ những thực trạng nêu trên và để hoàn thành ý tưởng nêu ra “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2” của mình. Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc, lấy 2 lớp làm trung tâm nghiên cứu đó là lớp 2C (lớp chủ nhiệm) và lớp 2B (lớp đối chứng).
Sau khi dạy bài "Làm việc thật là vui" [1]. Tôi đã phát hiện ra những lỗi học sinh thường hay mắc phải cụ thể như sau:
*Lớp 2C (Lớp thực nghiệm) và lớp 2B(Lớp đối chứng)
Lớp
HS đọc đúng, trôi chảy, biết ngắt nghỉ
hợp lí
Học sinh đọc đúng, trôi chảy, ngắt nghỉ
chưa hợp lí
HS đọc đúng nhưng còn chậm, ngắt nghỉ chưa hợp lí
HS đọc ngắc ngứ, phát âm còn sai
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2C
6
18,75
12
37,51
7
21,87
7
21,87
2B
5
15,15
13
39,4
7
21,21
8
24,24
Từ kết quả khảo sát trên tôi rút ra được nhận xét:
* Ưu điểm: 
- Hầu hết học sinh ở hai lớp đều đã biết đọc đúng trình tự văn bản.
- Nắm được yêu cầu bài tập.
* Nhược điểm: 
- Kết quả khảo sát lần 1 cho thấy số học sinh ở cả 2 lớp nói chung và lớp tôi chủ nhiệm nói riêng đã mắc lỗi phát âm, đọc ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm quá lớn. Cụ thể phần luyện phát âm có em Đào Thắng, Minh, Quân, Lan Nhi ,... Phần ngắt giọng có em Trịnh Thắng, Xuân Hiếu, Duy Phần đọc diễn cảm thì chủ yếu là các em nêu trên mắc lỗi và một số em khác như em Bình, Vân, Toàn. 
* Nguyên nhân: 
+ Giáo viên dạy lớp 1 còn nói tiếng địa phương cho nên việc hướng dẫn phát âm theo chuẩn tiếng phổ thông cho HS là chưa cao. Bên cạnh đó GV chưa chú ý cho HS luyện đọc trong các giờ học môn học khác.
+ Nguyên nhân chủ quan là do chính các em đem lại đó là tinh thần học tập, thái độ học tập của các em chưa cao, do đặc điểm tâm lí trẻ 7 - 8 tuổi các em rất hiếu động, khả năng tập trung chưa cao, do bố mẹ bận hoặc đi làm ăn xa nên không có người kèm cặp, đôn đốc các em học tập. Trong khi đó, để học sinh đọc đúng, biết ngắt giọng, nhấn giọng, đọc diễn cảm đòi hỏi ở tính kiên trì, nhẫn nại chịu khó. 
2.3. Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2. 
Qua khảo sát thực trạng đầu năm và từ những nguyên nhân chủ quan, khách quan nêu trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp về rèn kĩ năng đọc nhằm năng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 2.
Giải pháp 1: Xác định mục tiêu nội dung dạy học bài Tập đọc: 
- Xác định mục tiêu giờ học tức là xác định nội dung để viết mục I “Mục tiêu” trong kế hoạch bài dạy. Chúng ta biết rằng mục tiêu của phân môn Tập đọc là các kỹ năng đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm.
Vì vậy, khi xác định mục tiêu giờ Tập đọc ta phải chỉ ra được tốc độ, những nội dung luyện đọc đúng, đọc diễn cảm, đọc hiểu như thế nào?.
- Xác định nội dung dạy đọc càng cụ thể chi tiết bao nhiêu thì việc tiến hành giờ dạy càng có hiệu quả bấy nhiêu. Để xác định mục tiêu, nội dung dạy học chúng ta phải trả lời được: Sau giờ học học sinh đạt được những gì? Cụ thể đó là trả lời các câu hỏi:
+ Học sinh cần đọc bài tập đọc trong thời gian bao lâu? (để xác định tốc độ đọc, luyện kỹ năng đọc nhanh). [7]
+ Những từ ngữ, câu nào học sinh luyện đọc thành tiếng, chúng cần được đọc lên như thế nào và vì sao lại chọn những từ ngữ, câu đó để luyện đọc?.
+ Toàn bài cần đọc với giọng điệu như thế nào, tốc độ, cường độ, cao độ, trường độ ra sao?. 
+ Những từ ngữ, câu nào cần giải nghĩa và giải nghĩa chúng ra sao? Những tình tiết nào của câu chuyện cần tìm hiểu và tìm hiểu chúng như thế nào?
+ Nội dung chính của bài tập đọc là gì, ý nghĩa của bài văn, bài thơ, câu chuyện là gì? Học sinh được giáo dục điều gì sau khi đọc bài tập đọc?.
Giải pháp 2: Rèn các kỹ năng đọc:
*Đọc mẫu:
- Giáo viên đọc mẫu thật diễn cảm, phù hợp với từng văn bản. Biết hướng dẫn học sinh về cách đọc; sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động rèn kĩ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm để tìm hiểu nội dung bài, tham gia các trò chơi luyện đọc, ...) phát triển kĩ năng đọc cho học sinh.
Tôi luôn chú trọng cách đọc mẫu làm thế nào cho hấp dẫn, lôi cuốn được các em bắt chước cách đọc diễn cảm.
Ví dụ : Bài thơ: “ Mẹ'' [1]
Giáo viên đọc mẫu với giọng chậm rãi, tình cảm; ngắt nhịp thơ đúng; nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm: lặng, mệt, nắng oi, chẳng bằng. [8]
Ví dụ : Bài : ''Chuyện bốn mùa. [1]
- Đọc mẫu toàn bài. Chú ý phát âm rõ, chính xác; giọng đọc nhẹ nhàng; đọc phân biệt lời các nhân vật: Lời Đông khi nói với Xuân trầm trồ, thán phục. Giọng Xuân nhẹ nhàng. Giọng Hạ tinh nghịch, nhí nhảnh. Giọng Đông nói về mình lặng xuống, vẻ buồn tủi. Giọng Thu thủ thỉ. Giọng bà Đất vui vẻ, rành rẽ. Nhấn giọng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm: sung sướng nhất, ai cũng yêu, đâm chồi nảy lộc, đơm trái ngọt, nghỉ hè, tinh nghịch, thích, chẳng ai yêu, đều có ích, đều đáng yêu, [2]
Đối với các bài thơ, tuỳ theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ, nhấn giọng ở những từ ngữ in đậm.
Ví dụ : Bài thơ : '' Mẹ[1]
	Lặng rồi / cả tiếng con ve
	Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi.//
	Những ngôi sao / thức ngoài kia
	Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con.//
Bài thơ “Mẹ” thuộc thể thơ lục bát, bài thơ thể hiện nỗi vất vả và tình thương bao la của mẹ dành cho con. Việc đọc diễn cảm thường gắn liền với ngữ điệu nên tôi thường dùng cử chỉ, nét mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu thơ. Vì vậy khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được không khí trong lớp học thoải mái để học sinh có tâm trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc và cũng từ đó các em học tập và bắt chước thầy.
- Giáo viên phải có kỹ năng “đọc” thành thục.
Như ta đã biết chất lượng đọc của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó vai trò hướng dẫn của giáo viên rất quan trọng. 
Kỹ năng đọc là mục đích cuối cùng chúng ta muốn có ở học sinh sau mỗi giờ học Tập đọc. Giáo viên phải tạo được cho mình kỹ năng đọc thành thục. Giáo viên phải biết cách xác định từ, câu quan trọng đến việc hiểu được nghĩa, ý, tình của văn bản. Giáo viên không thể hình thành ở học sinh kỹ năng gì mà bản thân mình không có, không thể gặt hái được những gì mà ta không có khả năng gieo trồng. Vì vậy, trong dạy học chúng ta

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_ren_ki_nang_doc_cho_hoc_sinh_lop_2.doc