SKKN Hướng dẫn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2B

SKKN Hướng dẫn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2B

Chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết, được thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp bằng chữ viết bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự quy định có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.

Một ngôn ngữ văn hóa không thể không có chính tả thống nhất. Chính tả thống nhất là một trong những biểu hiện trình độ văn hóa phát triển của một dân tộc.

Phân môn chính tả trong nhà trường, giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng tiếng việt. Vì vậy, phân môn chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện mục tiêu của môn tiếng việt là rèn và phát triển tiếng mẹ đẻ cho học sinh, trong đó có năng lực chữ viết. Phân môn này góp phần hình thành một trong bốn kĩ năng quan trọng của môn tiếng việt đó là kĩ năng viết cho học sinh.

Trong những năm gần đây, các nhà trường Tiểu học luôn quan tâm đến chữ viết qua các phong trào thi “Viết chữ đẹp”. Đây là một hình thức để tuyên truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em viết chữ đẹp. Viết đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về luật chính tả.

Hiện nay, tình hình viết sai lỗi chính tả của học sinh khá phổ biến. Vấn đề này có thể do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên và học sinh đôi khi còn phát âm theo tiếng địa phương . Hơn nữa trình độ tiếng việt của một số giáo viên còn hạn chế, năng lực nắm luật chính tả chưa sâu nên rất lúng túng trong việc giảng dạy chính tả. Mặt khác do điều kiện gia đình các em làm nông nghiệp, bố mẹ suốt ngày bận rộn với công việc đồng áng hoặc đi làm ăn xa để các em ở nhà với ông bà, không có thời gian dạy dỗ con cái. Phần nữa là ý thức học tập của các em còn hạn chế, không đồng bộ Do đó, một yêu cầu bức xúc là giáo viên phải thực sự quan tâm tới từng đối tượng học sinh. Có biện pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện cho học sinh viết đúng đẹp để nâng cao chất lượng giờ chính tả. Qua quá trình giảng dạy ở các năm ở các lớp, với một số kinh nghiệm có được của bản thân, tôi mạnh dạn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: " Hướng dẫn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2B" vào quá trình giảng dạy của mình.

 

doc 17 trang thuychi01 15922
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Hướng dẫn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2B", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGỌC LẶC
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỒNG THỊNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
HƯỚNG DẪN VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ 
CHO HỌC SINH LỚP 2B
 Người thực hiện: Phạm Thị Hòa
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường tiểu học Đồng Thịnh- Ngọc Lặc
 SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt
ĐỒNG THỊNH, THÁNG 4 NĂM 2016
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
Trang 3
 Lí do chọn đề tài
Trang 3
Mục đích nghiên cứu
Trang 3
Đối tượng nghiên cứu
Trang 4
Phương pháp nghiên cứu
Trang 4
2. NỘI DUNG
Trang 4
2.1. Cơ sở lí luận
Trang 4
2.2.Thực trạng nghiên cứu
Trang 4
2.3.Các giải pháp
Trang 7
2.4.Hiệu quả của sáng kiến
Trang 13
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGH
Trang 15
 Kết luận
Trang 15
 Kiến nghị
Trang 16
Tài liệu tham khảo
Trang 17
1– MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
Chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết, được thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp bằng chữ viết bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự quy định có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.
Một ngôn ngữ văn hóa không thể không có chính tả thống nhất. Chính tả thống nhất là một trong những biểu hiện trình độ văn hóa phát triển của một dân tộc.
Phân môn chính tả trong nhà trường, giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng tiếng việt. Vì vậy, phân môn chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện mục tiêu của môn tiếng việt là rèn và phát triển tiếng mẹ đẻ cho học sinh, trong đó có năng lực chữ viết. Phân môn này góp phần hình thành một trong bốn kĩ năng quan trọng của môn tiếng việt đó là kĩ năng viết cho học sinh.
Trong những năm gần đây, các nhà trường Tiểu học luôn quan tâm đến chữ viết qua các phong trào thi “Viết chữ đẹp”. Đây là một hình thức để tuyên truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em viết chữ đẹp. Viết đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về luật chính tả.
Hiện nay, tình hình viết sai lỗi chính tả của học sinh khá phổ biến. Vấn đề này có thể do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên và học sinh đôi khi còn phát âm theo tiếng địa phương . Hơn nữa trình độ tiếng việt của một số giáo viên còn hạn chế, năng lực nắm luật chính tả chưa sâu nên rất lúng túng trong việc giảng dạy chính tả. Mặt khác do điều kiện gia đình các em làm nông nghiệp, bố mẹ suốt ngày bận rộn với công việc đồng áng hoặc đi làm ăn xa để các em ở nhà với ông bà, không có thời gian dạy dỗ con cái. Phần nữa là ý thức học tập của các em còn hạn chế, không đồng bộ  Do đó, một yêu cầu bức xúc là giáo viên phải thực sự quan tâm tới từng đối tượng học sinh. Có biện pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện cho học sinh viết đúng đẹp để nâng cao chất lượng giờ chính tả. Qua quá trình giảng dạy ở các năm ở các lớp, với một số kinh nghiệm có được của bản thân, tôi mạnh dạn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: " Hướng dẫn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2B" vào quá trình giảng dạy của mình.
- Mục đích nghiên cứu 
Môn Tiếng Việt giúp các em đọc thông, viết thạo. Chính vì vậy, việc rèn đọc cho các em luôn song song với việc rèn chữ viết. Chữ viết luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Chính vì thế, dạy cho các em viết đẹp, viết đúng chính tả là rèn đức tính cẩn thận, kiên trì, biết yêu quý Tiếng việt, yêu quý mọi người. Vì vậy, tôi luôn trăn trở làm như thế nào để nâng cao chất lượng viết chính tả cho học sinh lớp 2B. 
- Đối tượng nghiên cứu
Sáng kiến nghiên cứu nguyên nhân, thực trạng học sinh lớp 2B viết sai chính tả, đưa ra giải pháp để học sinh viết đúng chính tả.
- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, khảo sát, thu thập thông tin, xử lý số liệu.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp quan sát.
2- NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận 
Đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã chủ trương đổi mới chương trình Tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện giáo dục toàn diện ( Đức, trí, thể, mĩ và các kĩ năng cơ bản) đảm bảo sự cân đối hài hòa giữa ác lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường Tiểu học.
Để giúp học sinh nói, viết đúng tiêng phổ thông trước hết người giáo viên cần phải hiểu và nắm vững thuật ngữ “ chính tả” được hiểu theo nghĩa gốc là “phép tính đúng” hoặc “ lối viết hợp chuẩn”.
Trong chương trình môn Tiếng việt lớp 2, phân môn chính tả học sinh học theo hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học, mỗi tuần học sinh lớp 2 được thực hành viết bài chính tả trong 2 tiết. Các dạng bài chính tả ở lớp 2 gồm: Tập chép và nghe- viết. Ngoài ra, trong phân môn chính tả còn có phần bài tập, chủ yếu bổ trợ cho kĩ năng viết chính tả của học sinh. Gồm có dạng bài tập điền dấu thanh vào tiếng, điền âm đầu và dạng điền vần vào chỗ chấm.
 	Như vậy, phân môn chính tả ở lớp 2 chủ yếu là rèn kĩ năng đọc đúng, viết đúng, kết hợp kĩ năng sử dụng Tiếng việt phát triển tư duy cho học sinh.
2.2. Thực trạng nghiên cứu.
 Năm học 2015- 2016, tôi được nhà trường phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 2B. Tổng số học sinh là 20 em.Trong đó có 9 em nam và 11 em nữ, các em đều có ý thức học tập tốt, ngoan ngoãn nghe lời thầy cô, đoàn kết giúp đỡ bạn bè. Vì vậy, đó là điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện sáng kiến này.
Bên cạnh đó, lớp học phần đa là con gia đình nông nghiệp nên việc chăm lo đến học tập của các bậc phụ huynh đối với con em còn hạn chế. Có em đi học còn quên đồ dùng học tập. Do đó ảnh hưởng nhiều đến chất lượng chữ viết của các em. 	 
Qua thực tế giảng dạy lớp 2B của bản thân, tôi thấy: Học sinh viết chính tả nhìn chung chưa đảm bảo tốc độ viết chữ theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Có một số học sinh viết bài sạch sẽ, trình bày đúng. Song bên cạnh đó, còn rất nhiều học sinh gặp khó khăn trong giờ học chính tả. 
Để khảo sát thực trạng viết chính tả của học sinh, tôi đã sử dụng bài viết chính tả nghe- viết: "Ngày hôm qua đâu rồi?" cho học sinh viết. Tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số học sinh
Trình bày đúng, viết đẹp( loại A)
Trình bày đúng, viết chưa đẹp ( loại B)
Trình bày sai, viết chưa đẹp ( loại C)
số lượng
TL
số lượng
TL
số lượng
TL
20
3
15%
9
45%
8
40%
Nhìn vào bảng kết quả trên ta thấy số học sinh biết trình bày đúng viết đẹp ( loại A) rất ít, chiếm 15 %. Số học sinh trình bày đúng viết chưa đẹp( loại B) chiếm 45 %. Số học sinh trình bày sai ( loại C) chiếm tới 40 % trong tổng số học sinh cả lớp.
Thực trạng cụ thể ở lớp 2B qua các bài viết chính tả khác:
- Một số học sinh khi viết chính tả không kịp thời gian, hay viết sai lỗi chính tả: 
- Học sinh chưa biết cách trình bày một bài viết chính tả (Đoạn văn, đoạn thơ). Nhất là chính tả tập chép, học sinh nhìn bài viết mẫu của giáo viên trên bảng để chép, khi thấy bài viết xuống dòng ở chữ nào học sinh cũng xuống dòng chữ ấy:
- Học sinh viết sai phụ âm đầu: 
- Học sinh viết sai các vần khó:
Qua việc điều tra thực tế như vậy, tôi thấy tình trạng các em viết xấu và sai nhiều lỗi quá nhiều. Nếu như không có biện pháp khắc phục sớm, giúp các em viết đẹp và biết cách viết chữ như thế nào cho đúng, thì lên lớp 3 các em sẽ học như thế nào đây? Chính vì điều này đã thôi thúc tôi tìm ra một số biện pháp cụ thể, sát thực để giúp và đưa những đối tượng thuộc loại C lên loại (A hoặc B). Có như vậy thì chất lượng giờ chính tả mới được tốt.
 Nguyên nhân của thực trạng trên là: 
- Một số học sinh đọc còn chậm (khi đọc còn phải đánh vần) nên khi viết chính tả không kịp thời gian, hay viết sai lỗi chính tả.
- Học sinh chưa hiểu cách trình bày bài viết( còn bắt chước giáo viên viết bảng hoặc SGK- trong các tiết tập chép)
- Học sinh chưa nắm chắc quy tắc viết chính tả (viết sai phụ âm đầu, viết sai các vần khó).
Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến thực trạng chất lượng phân môn chính tả của học sinh lớp 2B. Trước vấn đề trên với những kinh nghiệm và tiêp thu học hỏi đồng nghiệp tôi đã vận dụng " Hướng dẫn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2B" nhằm nâng cao chất lượng viết chính tả ở lớp mình phụ trách trong các năm học tiếp theo.
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
2.3.1: Rèn nề nếp tác phong cho học sinh khi ngồi viết chính tả. 
Trước hết muốn học sinh viết đúng, đẹp thì tư thế ngồi viết của học sinh là quan trọng đầu tiên giúp học sinh có nét chữ đẹp. Vì vậy, ngay từ buổi đầu bước vào lớp, tôi chú ý ngay đến tư thế ngồi viết của từng em. Nhiều em lên lớp 2 rồi mà khi viết, mắt vẫn cúi sát xuống bàn hay cầm bút thấp quá nên mực hay ra tay làm bẩn vở. Để giúp những em này biết ngồi ngay ngắn khi viết, trước hết giáo viên phải giải thích cho các em hiểu cần ngồi viết đúng tư thế để giúp chữ viết đẹp hơn và có lợi cho sức khoẻ, mà ngược lại, nếu ngồi xiêu vẹo người thì sẽ bị tật vẹo cột sống suốt đời. Nếu em nhìn vào vở sát quá thì mắt sẽ bị cận thịSau đó giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và làm theo tư thế ngồi viết, ngồi viết ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực xuống bàn. Đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 – 30 cm. Tay phải cầm bút, tay trái đặt phía trước bên trái quyển vở giữ mép vở khi viết không bị xê dịch, quyển vở được để hơi chếch về phía tay trái. hai chân để thẳng, vuông góc sau đó tôi hướng dẫn cho các em cách cầm bút sao cho dễ viết, không cao quá khó viết và không thấp quá mực vào tay làm bẩn bài viết. Khi hướng dẫn tỉ mỉ tôi khuyến khích cho các em thực hiện, học sinh nào ngồi đúng nhất được tuyên dương trước lớp. Trong các tiết dạy chính tả tiếp theo, tôi luôn nhắc nhở để các em nhớ và ngồi đúng, tạo thói quen cho học sinh.
2.3.2: Xếp chỗ ngồi (Giải pháp cho thực trạng: Một số học sinh viết chính tả không kịp thời gian, hay viết sai lỗi chính tả.)
Tôi xếp cho những học sinh đọc, viết chậm ngồi thành nhóm để khi đọc chính tả nghe- viết tôi đến gần và đọc chậm, thậm chí đánh vần từng tiếng đủ để các em nghe. Đồng thời quan sát nếu thấy học sinh nào viết chưa đúng giáo viên sửa ngay. 
2.3.3: Quy định chung (Giải pháp cho thực trạng: Học sinh chưa biết cách trình bày một bài viết chính tả)
Từ đầu năm học, giáo viên nêu cách trình bày bài viết văn xuôi: Chữ đầu tiên cách lề vở 1 ô li- viết hoa. Đối với bài viết là thơ lục bát: dòng đầu tiên cách lề vở 2 ô li, dòng tiếp theo cách lề vở 1 ô li- viết hoa các chữ đầu dòng thơ. Đối với dạng thơ tự do: Chữ đầu tiên cách lề vở 2 ô li viết hoa các chữ đầu dòng thơ, các chữ đầu dòng thẳng cột. Đối với nhóm học sinh viết chưa đúng độ cao, đánh dấu thanh chưa đúng vị trí: Khi đọc chính tả giáo viên luôn nhắc nhở học sinh nhớ độ cao các chữ, khi viết đánh dấu thanh vào âm chính trong mỗi tiếng.
2.3.4: Luyện viết đúng phụ âm đầu. (Giải pháp cho thực trạng: Học sinh viết sai phụ âm đầu.)
Để giúp học sinh viết đúng một số phụ âm đầu dễ lẫn lộn này, trong mỗi giờ chính tả tôi phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt, trong từng bài cụ thể đối với từng cặp phụ âm mà học sinh hay sai để cho bài dạy sinh động, để giúp các em dễ phân biệt được cách viết đúng, sai.
Chẳng hạn, với phương pháp trực tiếp, tôi cho học sinh nghe, đọc, nhận xét các chữ viết đúng bằng mắt, tập viết vài lần chữ khó vào bảng con cho quen tay. Bước đầu tôi đọc toàn bài, sau đọc từng câu, từng cụm từ, chú ý nhấn mạnh những tiếng khó để luyện tập cách nghe cho học sinh. Tiếp theo tôi đặt câu hỏi bằng phương pháp gợi mở vấn đáp để giúp các em nhận ra những tiếng, từ các em hay viết sai. Sau đó tôi cho một số em nhắc lại một số luật chính tả, các em đã được học.
Như trước e, ê và i âm cờ được viết bằng chữ k (ca).
Ví dụ: kể; kẻ..
Hoặc trước e, ê và i âm gờ viết bằng chữ gh (ghờ ghép) hay ngờ viết bằng ngh (ngờ nghép).
Ví dụ: ghế; ghé.
	 nghỉ; nghé. 
Sau khi các em nhắc lại được một số luật chính tả, thì cho các em được luyện viết nhiều lần trên bảng con để các em nhớ.
Trong những giờ chính tả có phần luyện tập r/d/gi đa số các em khó tìm ra quy tắc phân biệt khi nào viết d hay gi. Vì vậy với bài tập so sánh trên tôi cho các em phân biệt bằng nhiều cách như sau:
- Đầu tiên cho các em dựa vào nghĩa để phân biệt.
Bước 1: Cho học sinh đọc kỹ đoạn văn, tìm ra những tiếng từ có phụ âm đầu r/d/gi có trong bài.
Học sinh tìm được là: dạo, rụt rè, giờ, giỏi, dành,.
Bước 2: Cho học sinh viết bảng con (nhận xét, giảng giải cách viết) phát âm, giải nghĩa từ, tìm từ có tiếng đó.
Chẳng hạn: với tiếng “dạo”.
Học sinh viết bảng con, giáo viên nhận xét và giảng cách viết.
d + ao + dấu nặng = dạo.
+ Phát âm (gv làm mẫu gọi 1- 2 học sinh phát âm lại) d – ao – nặng – dạo.
Học sinh đọc lại câu có chứa tiếng “dạo” cho trong bài và nêu “dạo” ý nói gì? (chỉ khoảng thời gian ngắn chưa lâu).
+ Học sinh tìm từ có tiếng “dạo”; dạo này, một dạo
Bước 3: Cho học sinh phân biệt r/ d/ gi bằng cách tìm các tiếng lập bảng.
r
d
gi
- rạo: rạo rực
dạo: dạo nào
không có
rào rạo, rệu rạo.
dạo chơi, dạo này
Gợi ý cho học sinh điền từ bằng cách dùng câu hỏi gợi ý. Em tìm từ có tiếng “rạo”/ “dạo”. Học sinh tìm đến đâu giáo viên ghi lên bảng đến đấy.
Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa, tôi đều phải theo dõi, quan tâm uốn nắn từng em. Những em viết sai s/ x là do các em phát âm sai. Khi dạy tôi phải phát âm lại cho các em nghe, phát âm s cong lưỡi, đầu lưỡi chạm ngạc phía trên. Còn viết là x khi đọc lưỡi thẳng đầu lưỡi đưa ra phía ngoài, luồng hơi thẳng ra ngoài. Sau đó tôi cho cả lớp phát âm lại nhiều lần cho đúng, viết bảng con theo sự phát âm như: Thi viết nhanh và đúng, giáo viên đọc “xanh” cả lớp viết vào bảng con, học sinh nào viết sai bị đứng lên phát âm lại. Hoặc khi dạy chính tả tiết 1 tuần thứ 2 ở phần luyện tập tôi chọn bài tập 2a (bài lựa chọn) giúp các em làm quen với cách phân biệt s/x qua các dạng bài tập.
Bài tập:Điền vào chỗ trống: 
a)s hay x: 
.oa đầu, ngoài ân, chim âu, .âu cá.
Trước khi làm bài tôi cho 2; 3 em đọc to nội dung yêu cầu của bài tập, cả lớp đọc thầm.
Sau khi học sinh hiểu được nội dung yêu cầu bài tập, tôi tiến hành tổ chức các hình thức luyện tập như sau:
Giáo viên phát 3 băng giấy cho 3 em học sinh ngồi ở vị trí khác nhau thi làm bài. Cả lớp làm bài trên giấy nháp.
Mỗi em làm bài xong (trên băng giấy) dán bài lên bảng, đọc kết quả. Cả lớp và giáo viên nhận xét về nội dung lời giải, phát âm, kết luận bài làm đúng. Học sinh nào làm đúng nhanh nhất là thắng cuộc.
Cả lớp và giáo viên nhận xét, sửa lỗi bài làm trên bảng lớp được dán.
xoa đầu, ngoài sân, chim sâu, xâu cá.
Những em thắng cuộc được khen ngợi và cả lớp thưởng một tràng vỗ tay khuyến khích.
Để phân biệt được s/x tôi đưa ra cho các em nhiều dạng bài tập như dạng câu đố giúp học sinh học tập sôi nổi hơn. Từ đó các em làm quen và biết cách dùng đúng khi viết chính tả.
Khi dạy chính tả, trước khi viết bài tôi luôn coi trọng việc tìm luyện viết chữ khó (chữ các em hay viết sai) trong bài. Đối với bước luyện viết từ khó này, tiết nào tôi cũng thực hiện và trước hết cho các em tìm trong đoạn bài viết những từ nào em thấy khó viết, học sinh nêu ra trước lớp sau đó giáo viên cho các em được luyện viết trên bảng con và gọi vài em lần lượt lên bảng viết, học sinh và giáo viên nhận xét đúng sai.
Song song với việc phân biệt phụ âm đầu, tôi luyện cho các em viết đúng các vần khó trong các tiếng, từ. 
2.3.5: Luyện viết đúng tiếng có vần khó. (Giải pháp cho thực trạng: Học sinh viết sai tiếng có vần khó)
Trong quá trình viết các em thường gặp phải những tiếng, từ có vần khó (uơ, uyu, uôn, uyết, uya .) một số tiếng có vần dễ lẫn lộn (oe/ eo/ uê/ oa/ ao.) một số từ khó “huơ vòi” trong bài “Ngày hội đua voi ở Tây Nguyên”
Để rèn viết đúng các lỗi này, trước khi viết bài tôi gọi học sinh phân biệt từng tiếng, cho học sinh khác nhau nhận xét và thống nhất cách viết.
 h + uơ = huơ
Vần khó nên khi phân tích tôi chú ý nhấn giọng vào phần vần, sau đó cho học sinh viết bảng con, lớp nhận xét, lớp tự sửa sai. Với những bài viết có ít những vần khó tôi có thể lấy thêm một số tiếng có vần khó đó, đọc cho học sinh viết, để khắc sâu vần cần chú ý.
Trong các tiết chính tả tôi thường chọn các dạng bài tập khác nhau cho các em được làm nhiều, luyện viết nhiều để các em nhớ cách viết đúng.
2.3.6: Chấm, chữa bài chính tả.
Để nâng cao chất lượng giờ chính tả, việc chấm chữa bài cũng rất quan trọng, giúp các em biết tự sửa lỗi sai của mình, nhớ viết đúng, lần sau không bị mắc lỗi sai đó.
Có nhiều hình thức chấm chữa bài, những khi dạy thì thường sử dụng biện pháp như sau:
Sau khi viết bài xong, tôi đọc chậm cho các em tự soát bài sau đó tự đổi vở cho nhau (2 em ngồi cạnh nhau) theo sự chỉ đạo của giáo viên. Nếu phát hiện ra lỗi sai của bạn, kịp thời bảo bạn sửa lại ngay. Sau khi các em thực hiện xong, tôi cho các em nêu kết quả mình đã được kiểm tra vở bạn. Giáo viên kịp thời tuyên dương những bạn không sai lỗi nào. Từ việc học sinh tự chữa lỗi theo tôi có những điểm tích cực sau đây:
Các em được tiếp xúc với văn bản viết một lần nữa, qua đó góp phần củng cố những kiến thức vừa được hướng dẫn.
Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự phát hiện ra những lỗi chính tả. Từ đó, các em có điều kiện để tái hiện lại quy tắc viết đúng chính tả cho mỗi trường hợp. Góp phần củng cố, khắc sâu hơn cho học sinh những khả năng chính tả.
Trường hợp, những em học sinh viết chậm, chuyên viết sai lỗi chính tả thì không tự phát hiện được lỗi của bạn. Đối với những em này, giáo viên đi đến từng em để hướng dẫn cách sửa lỗi. Từ đó giúp các em có thể nắm bắt được luật chính tả một cách thuận tiện.
Thông qua việc tự chữa lỗi của các em, tôi đã giáo dục các em tính cẩn thận, chính xác, không để sai sót đồng thời cũng kết hợp giáo dục lòng trung thành cho các em, sai lỗi nào bảo bạn sửa lỗi ấy.
Hình thành ý nghĩa giữ gìn đồ dùng của bạn cũng như của mình (giữ vở sạch,viết chữ đẹp), không được làm rách, bẩn vở của bạn trong quá trình chữa soát lỗi.
Hình thành ở các em ý thức nhiệm vụ được giao (tính tự giác).
Để thực hiện mục tiêu này, cần phải được tiến hành thường xuyên đối với các tiết chính tả. Tạo cho các em thói quen và giữ trật tự khi trao đổi bài. Giáo viên luôn tuyên dương và khuyến khích những em viết đúng, viết đẹp. Với những biện pháp trên, học sinh rất thích viết đúng và đẹp để cho bạn không tìm ra lỗi sai của mình và được cô khen trước lớp. Chính vì thế chỉ một thời gian không lâu tôi đã thu được kết quả đáng khả quan. 
2.3.7: Luyện viết chữ đúng đẹp.
Để nâng cao chất lượng giờ chính tả, thì việc luyện chữ viết cho các em là rất cần thiết. Viết đẹp nó còn thể hiện được tính cách của con người “Nét chữ - nết người”. Trong lớp tôi dạy có rất nhiều em viết chữ chưa đẹp vì nhiều lý do. Đó là các em viết chưa đúng kích cỡ: độ cao, rộng của các con chữ, khoảng cách giữa các chữ hay các con chữ chưa đều, các nét chữ chưa liền mạch.
Để giúp các em khắc phục những tình trạng trên tôi đã lập kế hoạch sử dụng các biện pháp khác nhau áp dụng đến từng đối tượng.
Muốn học sinh viết đẹp, trước hết giáo viên phải là người viết chữ đúng và đẹp. Trong những năm trước đây bản thân tôi viết chữ chưa đúng mẫu quy định. Đó cũng là điều tôi trăn trở: nếu mình không viết đúng và đẹp thì hướng dẫn học sinh viết sẽ không thực tế. Do đó, tôi rèn chữ viết thường xuyên. Qua quá trình rèn luyện, tôi đã tham gia và đạt giải các cuộc thi viết chữ đẹp cấp huyện. Tôi cho các em xem các bài viết để các em thấy được nếu cố gắng luyện viết thì ai cũng có thể viết đẹp. Trong các tiết chính tả tập chép tôi viết trên bảng lớp, học sinh nhìn bài chép.
Tôi hướng dẫn các em cách nhớ độ cao con chữ bằng cách chia độ cao các chữ cái thành các nhóm (đối với chữ viết thường).
Nhóm 1: Nhóm chữ cao 1 đơn vị như: a,ă, i, e, ê, n, m,.
Nhóm 2: Nhóm chữ cao 1,5 đơn vị như chữ t.
Nhóm 3: Nhóm chữ cao hoặc dài 2,5 đơn vị như: h, l, b, k, y, g.
Nhóm 4: Nhóm chữ cao 2 đơn vị như: d, đ,
Nhóm 5: Nhóm chữ cao 1,25 đơn vị như: s, r,
Đối với các chữ viết hoa đều có độ cao 2,5 đơn vị.
Khi học sinh học thuộc các độ cao của các chữ cái trên, tôi tiến hành hướng dẫn viết trên dòng kẻ bảng lớp. Trong khi viết giáo viên nhắ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_huong_dan_viet_dung_chinh_ta_cho_hoc_sinh_lop_2b.doc