SKKN Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy hát dân ca cho học sinh tiểu học

SKKN Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy hát dân ca cho học sinh tiểu học

Trong kho tàng âm nhạc dân gian của nước ta, dân ca được xem là di sản văn hóa của dân tộc. Là quốc gia của một cộng đồng với 54 dân tộc anh em chung sống, mỗi dân tộc đều có đặc điểm địa lý, khí hậu, điều kiện, hoàn cảnh sống khác nhau. Điều đó đã sản sinh ra những bài dân ca mang hương sắc riêng, tô điểm thêm cho kho tàng dân ca Việt Nam. Cái hay, cái đẹp, cái tinh túy của dân ca đã được nhân dân ta chắt lọc, mài dũa, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dân ca đã gắn bó với cuộc sống con người, đi vào đời sống tinh thần, tham gia vào các sinh hoạt văn hóa, lao động hàng ngày của mỗi người dân lao động.

Ngay từ thuở ấu thơ, mỗi trẻ em trong cộng đồng dân tộc Việt đã được tắm mình trong những âm điệu ngọt ngào, thiết tha của những câu hát ru. Những làn điệu dân ca tiêu biểu, đặc sắc của từng vùng miền đã làm rung động tâm hồn mỗi người dân Việt. Cho đến ngày nay, những di sản nghệ thuật quý báu ấy vẫn là những nguồn sữa dinh dưỡng để bồi bổ, nuôi dưỡng tâm hồn cho mỗi con người, nhất là trong bối cảnh của thời kì hội nhập và toàn cầu hóa, khi mà sự giao thoa và tiếp biến các giá trị văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng đã tạo nên những trào lưu mới trong xã hội, và cũng tạo nên những ảnh hưởng không ít tới sự hình thành và phát triển những nét tâm lý, tính cách của thế hệ trẻ.

 

doc 20 trang thuychi01 6805
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy hát dân ca cho học sinh tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
DẠY HÁT DÂN CA CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Người thực hiện: Hà Thị Kiên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Triệu Thành
SKKN thuộc môn: Âm nhạc
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
STT
TÊN MỤC
TRANG
1
Mở đầu
1
2
Lí do chọn đề tài
1
3
Mục đích nghiên cứu
2
4
Đối tượng nghiên cứu
2
5
Phương pháp nghiên cứu
2
6
Nội dung
2
7
Cơ sở lí luận
2
8
Thực trạng vấn đề
3
9
Các giải pháp, biện pháp
5
10
Biện pháp 1: Xây dựng CSVC thiết yếu phục vụ cho việc dạy học ÂN
6
11
Biện pháp 2: Xây dựng Phân phối chương trình dạy hát dân ca
6
12
Biện pháp 3: Xây dựng cách dạy cho từng phần nội dung cụ thể. Gây hứng thú học tập cho HS trong quá trình dạy hát
6
13
Biện pháp 4: Gây hứng thú học tập cho HS qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp
13
14
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
16
15
Kết luận, kiến nghị
17
16
Kết luận
17
17
Kiến nghị
17
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong kho tàng âm nhạc dân gian của nước ta, dân ca được xem là di sản văn hóa của dân tộc. Là quốc gia của một cộng đồng với 54 dân tộc anh em chung sống, mỗi dân tộc đều có đặc điểm địa lý, khí hậu, điều kiện, hoàn cảnh sống khác nhau. Điều đó đã sản sinh ra những bài dân ca mang hương sắc riêng, tô điểm thêm cho kho tàng dân ca Việt Nam. Cái hay, cái đẹp, cái tinh túy của dân ca đã được nhân dân ta chắt lọc, mài dũa, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dân ca đã gắn bó với cuộc sống con người, đi vào đời sống tinh thần, tham gia vào các sinh hoạt văn hóa, lao động hàng ngày của mỗi người dân lao động.
Ngay từ thuở ấu thơ, mỗi trẻ em trong cộng đồng dân tộc Việt đã được tắm mình trong những âm điệu ngọt ngào, thiết tha của những câu hát ru. Những làn điệu dân ca tiêu biểu, đặc sắc của từng vùng miền đã làm rung động tâm hồn mỗi người dân Việt. Cho đến ngày nay, những di sản nghệ thuật quý báu ấy vẫn là những nguồn sữa dinh dưỡng để bồi bổ, nuôi dưỡng tâm hồn cho mỗi con người, nhất là trong bối cảnh của thời kì hội nhập và toàn cầu hóa, khi mà sự giao thoa và tiếp biến các giá trị văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng đã tạo nên những trào lưu mới trong xã hội, và cũng tạo nên những ảnh hưởng không ít tới sự hình thành và phát triển những nét tâm lý, tính cách của thế hệ trẻ.
Hát dân ca là một trong những tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam, đã và đang được gìn giữ, phát triển. Đối với giáo dục, các bài hát dân ca đã được đưa vào trong chương trình học của các bậc học. Tuy nhiên, trong chương trình môn Âm nhạc của bậc Tiểu học thì các bài hát dân ca còn rất ít. Do vậy sự hiểu biết của các em học sinh Tiểu học về dân ca chưa thật sự sâu rộng. Một số bài hát dân ca ở chương trình tiểu học tuy giai điệu mượt mà nhưng ca từ thường khó hiểu đối với học sinh tiểu học như bài Bắc kim thang (Lớp 2), Cò lả (Lớp 4), ...Mặt khác sự xâm nhập tràn lan của những dòng nhạc hiện đại, nhạc giải trí đã khiến cho các em giảm sự hứng thú đối với việc học hát dân ca.
Những năm gần đây, phong trào “Gìn giữ làn điệu dân ca quê hương” được diễn ra khắp nơi nhằm lưu giữ vốn tinh hoa văn hóa riêng của dân tộc Việt. Năm học 2015 – 2016, cuộc thi liên hoan tiếng hát – kể chuyện được tổ chức một cách quy mô ở các cấp trong đó chú trọng và khuyến khích nội dung hát dân ca. Thế nhưng có rất ít tiết mục dân ca được biểu diễn. Tuy do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nhưng nguyên nhân phổ biến là hát dân ca khó thành công do từ nhỏ học sinh ít được tập hát dân ca nên để giọng hát toát lên được sắc thái riêng của dân ca từng vùng miền là vô cùng khó. Với một trường miền núi với nhiều khó khăn về cơ sở vật chất như Trường TH Triệu Thành như: đàn không có, các dụng cụ hỗ trợ dạy nhạc như thanh phách, trống, mõ,... được cấp nhưng đã hư hỏng nhiều, các loại đạo cụ phục vụ biểu diễn hầu như không có,... Vì vậy, việc dạy âm nhạc nói chung và dạy hát dân ca nói riêng cho học sinh thường là “dạy chay”, bởi vậy học sinh thường kém hứng thú học hát, nhất là học hát dân ca. Là một giáo viên Âm nhạc, trước tình trạng học sinh không thích học hát dân ca, tôi luôn trăn trở và đặt ra câu hỏi: Phải làm gì để học sinh yêu thích học hát dân ca và đam mê tìm hiểu các bài hát dân ca? Làm thế nào để duy trì và phát triển được phong trào hát dân ca trong nhà trường? Từ thực tế trên, qua quá trình giảng dạy, tôi thử nghiệm áp dụng một số biện pháp giúp cho học sinh trường tôi yêu thích học hát, hát đúng, hát hay các bài dân ca trong và 1số bài ngoài chương trình. Qua đó, định hướng thị hiếu thưởng thức âm nhạc cho học sinh góp phần lưu giữ, bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tôi xin ghi lại cách làm của mình để đồng nghiệp tham khảo qua kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy hát dân ca cho học sinh ở Trường Tiểu học Triệu Thành”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích của việc nghiên cứu là nắm bắt được khả năng tiếp thu của học sinh khi áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy. Tìm tòi, nghiên cứu, tìm ra nhiều các phương pháp, nhiều cách giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh, giúp học sinh học thuộc, hát đúng và biết trình bày một cách chủ động, sáng tạo trong bất kì bài hát dân ca nào.
- Đưa ra những biện pháp để học sinh Tiểu học yêu thích học hát các bài dân ca. Đồng thời, giúp các em nhận ra những giá trị văn hóa to lớn, tìm hiểu sâu hơn, tăng cường vốn hiểu biết về kho tàng dân ca Việt Nam, từ đó các em thêm trân trọng, yêu quý và biết lưu giữ những điệu hồn của dân tộc Việt.
Thực hiện các giải pháp trong đề tài nhằm tạo được tâm lí thoải mái, hào hứng, ý thức học tập tốt mỗi khi đến tiết Âm nhạc có nội dung học hát các bài hát dân ca, đồng thời kích thích tiềm năng nghệ thuật, kĩ năng sáng tạo, phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc, góp phần học tốt các môn học khác. 
- Giúp giáo viên dạy tốt, học sinh tiếp thu tốt phân học hát dân ca.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài tổng kết kinh nghiệm dạy hát dân ca cho HS tiểu học, tạo hứng thú học tập cho HS góp phần nâng cao chất lượng dạy hát dân ca cho HSTH. 
4. Phương pháp nghiên cứu
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết; 
- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; 
- PP thống kê, xử lý số liệu 
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Học sinh Tiểu học ở lứa tuổi từ 6 đến 11, đây là lứa tuổi rất nhạy cảm với Âm nhạc. Với nhận thức của học sinh tiểu học thì hát dân ca chiếm vị trí quan trọng trong nghệ thuật âm nhạc. Âm nhạc dân gian giúp các em hướng tới cái “Chân - Thiện - Mỹ”. Việc đưa dân ca vào trường học không chỉ đơn thuần là dạy dân ca, hát dân ca mà quan trọng là giúp học sinh nhận ra được những giá trị to lớn  của dân ca, từ đó các em biết trân trọng, yêu quý, biết lưu giữ điệu hồn dân tộc, góp phần giáo dục các em trở thành những người phát triển toàn diện. Ngoài ra, còn giúp các em có tâm hồn phong phú và bớt mệt mỏi sau những giờ học căng thẳng.
Trong chương trình Âm nhạc ở Tiểu học, Học hát là nội dung trọng tâm, được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 5, đây cũng là phân môn học sinh yêu thích nhất. Phân môn Học hát có ba dạng bài là: Bài hát thiếu nhi Việt Nam, dân ca và các bài hát nước ngoài. Việc dạy hát dân ca cho học sinh tiểu học là rất khó so với dạy các bài hát thiếu nhi trong chương trình sách giáo khoa. Bởi mỗi bài dân ca trong chương trình đều gắn liền với đời sống sinh hoạt, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của một vùng, hoặc của đặc thù riêng một dân tộc, có cách nói, cách diễn đạt khác nhau giữa vùng này với vùng khác, từ thực tiễn đó đã trở thành động cơ để tôi tìm tòi khám phá, thử nghiệm bằng kinh nghiệm và năng lực nghiệp vụ của mình để tìm ra kinh nghiệm sư phạm, những phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù của dạy hát dân ca, giúp các em nhanh tiếp cận với văn hóa âm nhạc dân gian, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.
II. Thực trạng
a. Thuận lợi - khó khăn	
* Thuận lợi:
- Dân ca đã bước vào cuộc sống mỗi người từ lúc nằm nôi nên hầu như mỗi học sinh đều thuộc lòng vài câu hát dân ca. Những điệu hò man mác xa khơi, những tiếng ru vời vợi trưa hè, những bài ca thấm đẫm tình đất, tình ngườiđã trở nên quen thuộc đối với nhiều học sinh, góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách các em ngay từ nhỏ.
- Những nốt nhạc luyến láy, những giai điệu du dương của dân ca tạo nên âm thanh lôi cuốn dễ đi vào lòng người, nên học sinh rất thích nghe, thích hát và thuộc rất nhanh các bài hát dân ca.
- Các em hào hứng khi học nhạc và tham gia các cuộc thi Hát.
* Khó khăn:
- Theo cấu trúc chương trình bộ môn âm nhạc ở cấp tiểu học mỗi lớp có 12 bài hát chính khóa và 6 bài hát học thêm tự chọn. Với thời lượng khiêm tốn đó, rất khó để giúp học sinh tìm hiểu được sâu về loại hình văn hóa nghệ thuật này. Hơn nữa cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy dân ca còn nhiều thiếu thốn: phòng dạy môn Âm nhạc vẫn còn chung với phòng học các môn học khác, chưa có trang thiết bị tranh ảnh, tư liệu, các nhạc cụ dân tộcchưa sử dụng phương pháp diễn xướng dân ca (lí do không đủ thời gian trong một tiết dạy chỉ 35- 40 phút, thiếu không gian biểu diễn.)
- Khả năng tiếp thu và ý thức học tập của một số em còn hạn chế.
- Một số em chưa tự tin, chưa mạnh dạn khi học hát.
- Một số bậc cha mẹ học sinh chưa quan tâm nhắc nhở con em mình học tập, cũng như chưa chuẩn bị đầy đủ về sách giáo khoa, đồ dùng học tập môn Âm nhạc.
- Các bài hát dân ca còn mang tính chất vùng miền, khi dạy hát học sinh chưa hiểu hết về tập quán sinh hoạt khi sáng tác bài dân ca của từng vùng khác nhau trên mọi miền đất nước.
- Vốn kiến thức sơ đẳng về dân ca Việt Nam nói chung của các em rất hạn chế.
 - CSVC chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu cần thiết để dạy dân ca như: Thiếu các nhạc cụ dân tộc, tranh ảnh minh họa. mà đi kèm với việc dạy hát dân ca, cần giới thiệu cả các nhạc cụ dân tộc phù hợp với từng vùng miền, tránh lệ thuộc quá nhiều vào nhạc khí phương tây. Hơn nữa không gian để biểu diễn các bài hát dân ca trong các tiết học ở trường cũng chưa được đáp ứng.
- Thư viện nhà trường thiếu tài liệu phuc vụ dạy hát dân ca (chủ yếu là giáo viên tự sưu tầm và chọn lọc trong quá trình giảng dạy)
b. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Khả năng tiếp thu Âm nhạc của học sinh Tiểu học có sự phát triển rõ rệt từ lớp 1 đến lớp 5. Ví dụ học sinh lớp 1, 2 có trí nhớ còn hạn chế, các em khó học thuộc những bài hát có lời ca tương đối dài hoặc có nhiều lời ca. Nhưng đến lớp 4, 5, khả năng ghi nhớ của học sinh đã được nâng cao hơn so với giai đoạn trước.
Biểu hiện về năng lực âm nhạc của học sinh cũng khác biệt, mỗi lớp thường có nhiều đối tượng học sinh khác nhau với năng lực tiếp thu âm nhạc khác nhau. Cũng có những học sinh có năng khiếu ở mặt này nhưng lại yếu ở mặt khác, ví dụ: hát đúng về cao độ thì lại chưa vững về trường độ, có khả năng gõ đệm tốt nhưng lại yếu về vận động theo nhạc Đa số học sinh có khả năng hát kết hợp các hoạt động khác như: vận động theo nhạc, gõ đệm, tham gia trò chơi Hứng thú, sở thích âm nhạc của học sinh không hoàn toàn giống nhau, cảm nhận thẩm mĩ âm nhạc của các em cũng khác biệt.
Thực tế hiện nay, trong giảng dạy bộ môn âm nhạc của Tiểu học, chương trình học dân ca còn ở mức “khiêm tốn”: khối lớp 1,2,3 mỗi lớp có 12 bài chính khóa và 6 bài học thêm tự chọn, khối 4,5 mỗi lớp có 10 bài chính khóa và 6 bài học thêm tự chọn. Với thời lượng khiêm tốn đó, dù học sinh thực sự yêu âm nhạc dân tộc mong muốn biết nhiều bài hát dân ca khó thành hiện thực, mặt khác do số tiết âm nhạc không nhiều và thời lượng cho một tiết học cũng hạn chế (35 – 40 phút /1 tiết/1 tuần), nên việc giáo dục dân ca cho học sinh khó có thể đi vào chiều sâu. 
Về sách giáo khoa hiện hành, học sinh Tiểu học được học 55 bài hát, trong đó có 11 bài dân ca, đó là:
- Quê hương tươi đẹp (dân ca Nùng)
- Lí cây xanh (dân ca Nam Bộ)
- Xoè hoa (dân ca Thái)
- Bắc kim thang (dân ca Nam Bộ)
- Gà gáy (dân ca Cống)
- Ngày mùa vui (dân ca Thái)
- Bạn ơi lắng nghe (dân ca Ba na)
- Cò lả (dân ca đồng bằng Bắc Bộ)
- Chim sáo (dân ca Khmer)
- Màu xanh quê hương (dân ca Khmer)
- Hát mừng (dân ca Hrê)
Để việc dạy và học dân ca phát huy hiệu quả, cần diễn xướng như một phương pháp dạy. Tuy nhiên như đã nói ở trên, ở trường tôi, việc dạy âm nhạc vẫn chủ yếu là dạy chay: lên lớp tập thể, học thuộc lời, hát đúng giai điệu là xong, giáo viên ít sử dụng phương pháp diễn xướng (vì không có thời gian cho các hoạt động này). Phần lớn giáo viên dạy theo sách giáo khoa, kết quả dừng lại ở việc thuộc lòng lời bài hát, làn điệu, tiết học nhạc khô cứng. Mặt khác, dân ca liên quan đến môi trường diễn xướng như: cây đa, bến nước, sân đình, đời sống sinh hoạt xã hội thường ngày của đồng bào các dân tộc, các vùng miềncác trang phục cho việc biểu diễn các bài hát dân ca chưa được thực hiện thường xuyên. 
Để thực hiện nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học Âm nhạc. Năm 2016 Sở GD&ĐT Tỉnh thanh hoa đã tập huấn và đưa vào giảng dạy các bài hát dân ca của địa phương với số lượng một tiết trên một học kì. Tuy số lượng còn ít ỏi nhưng cũng đã góp phần làm phong phú nguồn tư liệu về dân ca địa phương, nâng cao chất lượng giáo dục Âm nhạc và giáo dục văn hóa trong trường học.
Bản thân tôi là 1 giáo viên giậy môn Âm nhạc, song không có chất giọng mượt mà sâu lắng để truyền đạt đến học sinh những bài hát dân ca mang âm hưởng của mỗi vùng miền đúng nghĩa của nó. 
Với những thực trạng thuận lợi và khó khăn trên tôi đã xây dựng những giải pháp và biện pháp thực hiện như sau:
III. Giải pháp, biện pháp 
1. Các giải pháp thực hiện:
- Tham mưu với nhà trường có phòng học Âm nhạc riêng, có cơ sở v	ật chất, phương tiện dạy học tối thiểu phục vụ việc dạy học âm nhạc.
- Đề nghị với tổ chuyên môn nhà trường xây dựng chương trình dạy hát dân ca theo từng tiết dạy và mạch kiến thức cụ thể để có biện pháp dạy dân ca hiệu quả nhất.
- Xây dựng cách dạy cho từng phần nội dung cụ thể.
2. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Xây dựng CSVC thiết yếu phục vụ cho việc dạy học ÂN: Tham mưu với nhà trường có phòng Âm nhạc riêng, có những thiết bị dạy học tối thiểu phục vụ cho việc DH Âm nhạc như: Đàn Ooc- gan cho GV; trống, mõ, thanh phách, (mỗi loại khoảng 35 bộ).
Biện pháp 2: Xây dựng Phân phối chương trình dạy hát dân ca theo từng tiết dạy và mạch chương trình cụ thể để có biện pháp dạy dân ca có kết quả cao nhất 
- Từ nội dung chương trình hát dân ca của tiểu học, tôi phân thành các mảng kiến thức để đưa ra các phương pháp hình thức tổ chức dạy học hợp lý, cụ thể như sau:
+ Dạy hát dân ca.
+ Ôn tập các bài hát dân ca.
+ Nghe nhạc hát dân ca.
+ Hoạt động ngoài giờ lên lớp dạy cho học sinh các bài hát dân ca ngoài chương trình để các em yêu dân ca quê hương
Biện pháp 3: Xây dựng cách dạy cho từng phần nội dung cụ thể. Tạo hứng thú học tập cho HS trong quá trình dạy hát: 
Đối với tiết dạy bài hát dân ca
* Giới thiệu bài hát
Bước giới thiệu bài hát, tôi thường dùng bản đồ để giới thiệu vị trí địa lí nơi mà bài hát dân ca được ra đời, dùng tranh ảnh để giới thiệu về những nét sinh hoạt văn hoá, sinh hoạt cộng đồng, về phong cảnh các vùng miền, xuất xứ và nét đặc trưng của bài dân ca sắp học (như thang âm, các từ đệm, trang phục, các động tác múa) sao cho phù hợp với sự tiếp thu của học sinh, ngoài ra tôi còn giới thiệu sơ lược về một số nhạc cụ dân tộc của vùng miền đó, sau đó tôi gọi 1 – 2 học sinh lên chỉ vị trí trên bản đồ để nhận biết. Bước này rất hấp dẫn học sinh và mang lại cho các em nhiều kiến thức bổ ích, giúp học sinh hiểu sâu hơn về xuất xứ bài hát, là dân ca của vùng nào, vùng dân ca đó ở vị trí nào trên bản đồ đất nước Việt Nam. Trên cơ sở đó các em tuy không được đi thăm quan nhưng cũng có thể hiểu biết sơ lược về vùng đất đó. Mỗi dân tộc có một nền văn hoá riêng, các vùng dân ca nằm khắp đất nước nhưng mỗi một bài dân ca có những nét đẹp riêng. Việc sử dụng bản đồ nhằm thu hút sự chú ý tò mò ham hiểu biết của học sinh. không những thế nó còn tạo cho giờ dạy thêm phong phú và sử dụng đồ dùng đạt hiệu quả.
VD: Dạy tiết 19 (Lớp 5) - Học hát: Bài “Hát mừng” dân ca Hrê (Tây Nguyên).
Trong phần giới thiệu bài hát, tôi treo bản đồ và yêu cầu học sinh lên chỉ vùng Tây Nguyên và nêu những hiểu biết của mình về dân tộc Hrê và những nét đặc trưng riêng của vùng đất này (nếu biết). Sau đó tôi cung cấp một số kiến thức về Tây Nguyên như: Có nhiều lễ hội của đồng bào các dân tộc (như Lễ hội mừng lúa mới, cúng bến nướckhi làm lễ thường sử dụng các nhạc cụ như cồng, chiêngvà giới thiệu trang phục của dân tộc Hrê qua hình ảnh).  
* Nghe hát mẫu  
 Đối với học sinh Tiểu học thì việc nghe hát mẫu kết hợp động tác minh họa kèm
theo, sẽ làm cho HS cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn được tình cảm của bài dân ca đó mang lại và HS sẽ thấy thích thú hơn, mong muốn được học hát hơn. Vì vậy khi cho HS nghe bài hát mẫu, tôi thường sưu tầm những băng đĩa có hình ảnh để học sinh vừa được nghe giai điệu bài dân ca, vừa được xem những động tác biểu diễn, giúp các em hiểu kĩ hơn về trang phục và động tác múa hát đặc trưng của từng vùng miền. Qua đó, khi dạy các em trình bày bài hát kết hợp vận động, các em đã phần nào nắm được những động tác múa hát đặc trưng của bài dân ca mình trình bày. Tuy nhiên, để thay đổi không khí cho các tiết học, khi hát mẫu - tôi cũng thường tự trình bày bài hát dân ca kết hợp với một số động tác biểu diễn đơn giản hoặc sử dụng nhạc cụ gõ đệm của dân tộc như: Song loan, thanh pháchtôi quan sát thấy HS rất chăm chú khi nghe bài hát
VD: Dạy tiết 12 (Lớp 4) - Học hát: Bài “Cò lả” dân ca Đồng bằng Bắc Bộ
Khi hát mẫu bài hát: Lần 1, tôi kết hợp dùng thanh phách gõ đệm theo nhịp của bài hát, lần 2, tôi kết hợp với một số động tác phụ họa đơn giản phù hợp với nội dung bài Cò lả.
* Đọc lời ca
Để học sinh hiểu được nội dung ý nghĩa của bài dân ca, của từng câu từ, lời ca dân gian của một dân tộc, một vùng miền là việc làm rất quan trọng, vì khi HS hiểu được ý nghĩa nội dung bài dân ca, các em sẽ cảm thấy gần gũi với bài hát hơn.
Trong bước đọc lời ca, sau khi đọc, tôi thường cho HS giải nghĩa của một số ca từ (nếu các em biết). Với những từ HS chưa hiểu, tôi giải nghĩa và phân tích kĩ để HS năm được những từ khó trong bài hát.
VD: Từ Xoè hoa trong bài cùng tên có nghĩa là “Múa hoa”. Bài Gà gáy, từ “té le” là một cách cảm nhận của đồng bào Cống về tiếng gáy te te của chú gà trống choai. Bài Bắc kim thang, từ “kèo” là thanh gỗ hoặc tre nằm trên cột nhà, làm khung đỡ trần nhà; “té” nghĩa là ngã; “làm chi” nghĩa là làm gì; “le le” nghĩa là con vịt trời; “bìm bịp” là một loài chim. Hoặc bài Cò lả, từ “phủ” là chỉ đơn vị hành chính ngày xưa, tương đương với “huyện” ngày nay. Hay bài Lí cây xanh, từ “lí” nghĩa là khúc hát ngắn về cây xanh.
 * Khởi động giọng
Khi dạy các bài hát thiếu nhi hoặc các bài hát nước ngoài, trong bước khởi động giọng, tôi thường sử dụng gam trưởng hoặc gam thứ của Âm nhạc phương Tây cho HS khởi động giọng, ví dụ:
Nhưng khi dạy hát dân ca. Do sắc thái riêng của từng vùng miền, nên mỗi bài lại có một màu sắc riêng, và thường viết bằng thang âm ngũ cung, như Pha Son La Đô Rê (Trong bài hát Quê hương tươi đẹp), Đô Rê Mi Son La (Trong bài hát Lí cây xanh), vì thế việc sử dụng gam trưởng, thứ của phương Tây là không phù hợp. Do đó tôi thường sử dụng chính thang âm của từng bài làm mẫu âm khởi động, có bài tôi dùng luôn giai điệu của bài hát làm mẫu để học sinh khởi động giọng.
VD:Dạy tiết 23 (Lớp 4) - Học hát: Bài “Chim sáo” dân ca Khơ-me Nam Bộ
Tôi đã sử dụng câu hát cuối là mẫu âm dùng để khởi động giọng:
Việc sử dụng mẫu âm này vừa giúp học sinh bước đầu được nghe âm hưởng của bài hát dân ca, ngoài ra còn giúp các em được tiếp xúc với giai điệu để khi học bài hát dễ dàng hơn, nhanh hơn.
*Chia câu hát
Khi dạy bài hát dân ca, việc chia các câu hát trong bài dân ca phải hết sức linh hoạt: có thể có câu hát dài, có câu hát ngắn vì bài dân ca thường được xây dựng từ thơ lục bát, lời ca đệm thêm bằng những hư từ như “ơi, à, í a.” nên cấu trúc không cân đối. 
VD: Dạy tiết 4 (Lớp 2) - Học hát: Bài “Xòe hoa” dân ca Thái
Tôi chia bài hát thành 4 câu hát với độ dài ngắn không đều nhau:
Câu 1: Bùng bong bính boong ngân nga tiếng cồng vang vang.
Câu 2: Nghe tiếng chiêng reo vu

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_day_hat_dan_ca_c.doc