SKKN Một số kinh nghiệm dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy tại trường THCS Quảng Giao – huyện Quảng Xương – tỉnh Thanh Hóa

SKKN Một số kinh nghiệm dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy tại trường THCS Quảng Giao – huyện Quảng Xương – tỉnh Thanh Hóa

Trong nhiều năm qua, nền kinh tế xã hội trên toàn thế giới có nhiều chuyển biến nhanh chóng. Ở nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, vấn đề giáo dục luôn được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu. Để đáp ứng được yêu cầu của cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải thay đổi cách dạy và cách học nhằm tạo ra nguồn nhân lực mới có tri thức khoa học cao, kĩ năng vận dụng vào thực tiễn và dễ dàng thích ứng trong môi trường mới đầy năng động, sáng tạo để giải quyết tốt các vấn đề trong cuộc sống.

Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn nhưng hiện tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”

Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học sinh chép như môn chính tả.ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các khái niệm.ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”.

Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp.

Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống.

 

doc 21 trang thuychi01 10652
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy tại trường THCS Quảng Giao – huyện Quảng Xương – tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong nhiều năm qua, nền kinh tế xã hội trên toàn thế giới có nhiều chuyển biến nhanh chóng. Ở nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, vấn đề giáo dục luôn được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu. Để đáp ứng được yêu cầu của cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải thay đổi cách dạy và cách học nhằm tạo ra nguồn nhân lực mới có tri thức khoa học cao, kĩ năng vận dụng vào thực tiễn và dễ dàng thích ứng trong môi trường mới đầy năng động, sáng tạo để giải quyết tốt các vấn đề trong cuộc sống.
Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn nhưng hiện tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”
Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học sinh chép như môn chính tả...ở bậc Tiểu học,  đọc hoặc ghi lên bảng các công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các khái niệm...ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”. 
Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp. 
Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống. 
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt. 
 Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể ra một số nguyên nhân sau: 
Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong một tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhàNhư vậy, chỉ còn khoảng 30  phút để giảng bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”.
Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ động trong học tập nên cũng có thầy cô chọn cách đọc bài, học trò chép bài. Học sinh về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm cao
Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất sức, cứ sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng lại ghi vài chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa không tốn sức.
Qua quá trình giảng dạy từ phương pháp truyền thống chuyển đổi sang phương pháp giảng dạy theo hướng mới đó là : Lấy học sinh làm trung tâm, tập trung đầu tư phương pháp làm sao cho học sinh chủ động nắm bắt kiến thức ngay trên lớp thông qua việc vận dụng từ những phương pháp tối ưu trên bục giảng để học sinh tự làm chủ , tự phát huy để lỉnh hội những kiến thức cơ bản ( trên chuẩn kiến thức kỉ năng ) là một việc làm thật sự thách thức và khó khăn cho cả thầy và trò ( làm sao cho hiệu quả , không chạy theo hình thức ), với kinh nghiệm là một giáo viên đã có tuổi nghề gần 20 năm . Những thách thức đó là :
- Những thách thức đối với môn Địa lí ở trường phổ thông
Vị trí, vai trò của môn Địa lí phổ thông trong thực hiện mục tiêu giáo dục
Điều 23, Luật Giáo dục quy định mục tiêu của giáo dục phổ thông là: "giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con  người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh (HS) những kiến thức phổ thông, cơ bản, cần thiết về Trái Đất và những hoạt động của con người trên bình diện quốc gia và quốc tế, làm cơ sở cho hình thành thế giới quan khoa học; giáo dục tư tưởng tình cảm đúng đắn; đồng thời rèn luyện cho HS các kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, xã hội, phù hợp với yêu cầu của đất nước thờiđại.
 - Môn Địa lí còn có nhiều khả năng bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy (tư duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư duy phê phán,...); trí tưởng tượng và óc thảm mĩ; rèn luyện cho HS một số kĩ năng có ích trong đời sống và sản xuất. Cùng với các môn học khác, môn Địa lí góp phần bồi dưỡng cho HS ý thức trách nhiệm, lòng ham hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước.
Vì vậy, Địa lí là môn học không thể thiếu được trong hệ thống các môn học của nhà trường phổ thông, nhằm góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông như Luật Giáo dục đã nêu.
Những khó khăn gặp phải trong quá trình đổi mới:
 - Một số giáo viên (GV) Địa lí vẫn chưa thực sự thấm nhuần bản chất, hướng và cách thức đổi mới PPDH Địa lí; hiểu biết về cơ sở lí luận, thực tiễn của đổi mới PPDH.  
 - Đa số GV vẫn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ hỏi đáp, nặng về thông báo, giảng giải kiến thức, nhẹ về phát huy tính tích cực và phát triển tư duy HS. 
 - Nhiều GV lên lớp theo kiểu dạy "chay", không sử dụng bản đồ/lược đồ ngay cả trong các tiết học có nội dung về địa lí khu vực, quốc gia, tổ quốc và địa phương. Việc sử dụng phương tiện dạy học còn nặng về mô tả, minh hoạ là chủ yếu.
 - Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu. Dạy theo lớp là chủ yếu. Các hình thức dạy học cá nhân, nhóm, ngoài trời còn được ít, hoặc chưa được thực hiện, hiệu quả thực hiện còn thấp.
 - Cơ sở vật chất phục vụ dạy học và các phương tiện dạy học còn thiếu và chưa đồng bộ.[1].
......
Vì thế, chương trình giáo dục mới rất chú trọng đến việc phát huy tư duy tổng hợp, sáng tạo, tự nghiên cứu, tự học của học sinh, trong đó bài ôn tập góp phần rất quan trọng. Những bài ôn tập chỉ được đánh giá tốt khi nó phát huy cao độ khả năng tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức đã học, xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên, giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất của con người, củng cố các kĩ năng phân tích so sánh và giải thích các hiện tượng có liên quan.
Bài ôn tập trở nên vô cùng cần thiết cho vấn đề củng cố kiến thức cho các em trong tất cả các môn học. Riêng đối với môn Địa lí thì đây là một trong những bài khó dạy, vì trong sách giáo khoa không có bài ôn tập cụ thể, lại không có sách nào hướng dẫn một tiết ôn tập một cách chi tiết. Chính vì lẽ đó giáo viên khi dạy các tiết này thường gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị công phu, kiến thức tổng hợp nhuần nhuyễn, kĩ năng phân tích thuần thục và phải có phương pháp dạy học hợp lí, bên cạnh đó học sinh cũng phải có sự chuẩn bị đầy đủ trước những nội dung ôn tập ở nhà thì mới dạy tốt được tiết ôn tập. Tuy nhiên, khi tổ chức dạy học ở lớp, tiết ôn tập vẫn rất khó thành công.
 Những tiết ôn tập trong chương trình Địa lí THCS không có trong sách giáo khoa mà giáo viên tự soạn nội dung, vì vậy thường rơi vào tình trạng nội dung ôn tập quá dài, không thực hiện được hết trong một tiết; hoặc có những tiết lại không tổng hợp, hệ thống hóa được kiến thức trọng tâm của chương trình, dàn trải nội dung. Kết quả học sinh không thích tiết ôn tập, hơn nữa học sinh rất thực tế, các em chạy theo các môn khoa học tự nhiên và môn ngoại ngữ, không thích các môn xã hội, nhất là môn Địa lí các em xem đây là môn phụ thì chínhcác tiết ôn tập làm các em nhàm chán. 
Nhiều năm trong nghề, tôi rất trăn trở về vấn đề này, mỗi lần có thanh tra về hoặc thi giáo viên giỏi nếu gặp tiết ôn tập tôi rất lo sợ. Không những riêng tôi mà các đồng nghiệp của tôi cũng vậy, họ rất ngại tiết ôn tập. Vì vậy đề tìm được phương pháp nào tiện lợi, hiệu quả vừa có khả năng truyền tải hết kiến thức bài học vừa tạo ra cho học sinh hứng thú học tập. Vừa khắc sâu kiến thức, vừa làm cho các em yêu thích môn học. Từ đó phát huy tính tích cực, tự giác và suy luận cho các em, nhất là các em khối 9 để các em có đủ hành trang cho các kì thi tuyển (Thi HSG, thi tuyển sinh vào lớp 10 - nếu môn thi thứ ba là môn Địa lí).
Chính vì thế được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp, tôi đã chọn "Một số kinh nghiệm dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy tại trường THCS Quảng Giao – huyện Quảng Xương – tỉnh Thanh Hóa" góp phần tổng hợp kiến thức nhanh gọn, khái quát.Tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp này vào xây dựng giáo án tiết 17: Ôn tập Địa lí 9. Kết quả thấy việc áp dụng phương pháp mới đó đã giải thoát được rất nhiều vướng mắc của giáo viên bấy lâu nay là rút ngắn được thời gian. Đặc biệt hệ thống hóa kiến thức một cách nhanh chóng, đa số học sinh hiểu bài, khắc sâu hơn kiến thức bài học, hứng thú trong học tập, các em có ý thức xây dựng bài nhiều hơn, biết suy luận các vấn đề, giờ học Địa lí trở nên sôi nổi hơn. Tôi thiết nghĩ tiết ôn tập (Địa lý) nào giáo viên cũng làm được như thế này thì chắc chắn môn Địa lí sẽ được các em yêu thích nhiều hơn
1.2. Mục đích nghiên cứu 
- Góp phần nâng cao khả năng xây dựng và sử dụng sơ đồ cho giáo viên.
-  Giúp học sinh có khả năng nhận thức kiến thức và tự hoàn thiện kiến thức.
- Thông qua tiết ôn tập GV tổng kết lại kiến thức đã học trước đó bằng việc sử dụng sơ đồ trong dạy học Địa lí. Đồng thời rèn luyện cho HS những kỷ năng vẽ biểu đồ ở các dạng bài tập Địa lí.
- Giới hạn trong việc tạo kỷ năng xây dựng và sử dụng sơ đồ cho giáo viên.
- Tìm hiểu thực trạng dạy tiết ôn tập hiện nay và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên 
- Cần phải có phương pháp như thế nào để ôn tập tốt cho học sinh, cho các em nắm vững hệ thống kiến thức về dân cư và các ngành kinh tế của Việt Nam để 
 tiết sau các em làm kiểm tra có kết quả tốt 
- Dạy tiết ôn tập như thế nào để các em hứng thú với tiết học, không gây sự nhàm chán học lại kiến thức
- Áp dụng phương pháp sơ đồ trong dạy tiết 17 (Ôn tập Địa lí lớp 9). 
- Đề tài này được thực hiện nghiên cứu ở chương trình Địa lí 9(HK1), thực hiện phương pháp dạy ôn tập bằng sơ đồ phần Địa lí dân cư và Địa lí kinh tế.
- Học sinh có thể vận dụng nghiên cứu để hình thành kĩ năng, phương pháp học
 tập tốt hơn thông qua sơ đồ
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Áp dụng đối với học sinh THCS nói chung 
- Người thực hiện là giáo viên và học sinh trong giảng dạy và học tập môn địa lí ôn tập GV tổng kết lại kiến thức đã học trước đó bằng việc sử dụng sơ đồ trong dạy học Địa lí. Đồng thời rèn luyện cho HS những kỷ năng vẽ biểu đồ ở các dạng bài tập Địa lí.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thử nghiệm 
- Phương pháp vấn đáp 
- Phương pháp nêu vấn đề 
- Phương pháp thảo luận cá nhân , cặp , nhóm
1.5 Điểm mới của Sáng kiến
- Giúp HS hệ thống hóa kiến thức ở tiết ôn tập
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh yên thích bộ môn Địa lý
- Hướng tới hoạt động học của học sinh nhằm phát huy năng lực của các em.
2 . NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận 
Ngày nay trong quá trình hội nhập nền kinh tế, giáo dục được coi là một lĩnh vực rất quan trọng và luôn đi trước một bước trong sự nghiệp phát triển kinh tế của một quốc gia.Vì vậy, vấn đề chất lượng dạy- học nói chung và dạy học môn Địa lí nói riêng ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các nhà sư phạm cũng như các nhà quản lý giáo dục và xã hội. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Điều đó đã được thể hiện trong các Nghị Quyết của Trung ương.
Nghị quyết TW4 khoá VII đã chỉ rõ phải “Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp học với hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo năng lực giải quyết vấn đề Nghị quyết TW2 khoá VIII tiếp tục khẳng định phải “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp  tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học , tự nghiên cứu cho học sinh 
Từ kết kết quả đạt được trong năm học 2015-2016, 2016 - 2017 về thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ngành, năm học 2017-2018 ngành Giáo dục & Đào tạo Quảng Xương tiếp tục tập trung thực hiện thắng lợi chương trình hành động của chính phủ triển khai Nghị quyết đại hội XII của Đảng. Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XXV nhiệm kì 2015-2020, tiếp tục đưa sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo huyện Quảng Xương phát triển vững chắc với nhiệm vụ tập trung nâng cao chất lượng và đổi mới phương thức dạy học. 
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội, môn Địa lí trong nhà trường nói chung và môn Địa lí lớp 9 nói riêng không ngừng cải tiến chương trình, cải tiến phương pháp dạy học nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.Trong đó "kinh nghiệm dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy "đóng vai  trò quan trọng, nó có nhiệm vụ củng cố kiến thức, rèn luyện kỷ năng Địa lí cho học sinh một cách thuần thục và chắc chắn hơn 
 Theo cấu trúc chương trình, hầu như sau một chương thường có một tiết ôn tập để củng cố kiến thức chuẩn bị cho tiết kiểm tra. Đây là một thuận lợi rất lớn giúp giáo viên thực hiện tốt các phương pháp dạy học và biện pháp rèn luyện kỹ năng địa lí cho học sinh 
2.2. Thực trạng vấn đề
Qua nhiều năm giảng dạy môn Địa lí lớp 9, tôi nhận thấy chương trình Địa lí THCS nói chung và Địa lí lớp 9 nói riêng có nhiều kiến thức rất trừu tượng đối với học sinh, nhiều khái niệm, có nhiều bài nội dung dài nên trong thời gian một tiết học rất khó để giáo viên giảng giải hết cho học sinh hiểu. Là môn học không có chương trình ngoại khóa cho nên tiết ôn tập là để giáo viên khái quát và chốt kiến thức quan trọng đồng thời giải đáp một số thắc mắc của học sinh. Vì thế vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên có trình độ chuyên ngành hay không chuyên ngành việc lựa chọn phương pháp dạy học như thế nào cho phù hợp mỗi tiết học. Thực tế trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên rất ngại khi sử dụng sơ đồ(có thể do nhận thức về phương pháp này, do sợ thiếu thời gian lên lớp hay chi phí tốn kém. Qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy học sinh có kĩ năng ôn tập môn Địa lí rất hạn chế. Tôi đã tiến hành khảo sát, thăm dò một số lớp 9 trong trường về kĩ  năng ôn tập môn Địa lí và đã thu được một số kết quả như sau:
Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài
(hai lớp với 49 em học sinh)
Lớp 
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
9A
25
0
8
17
9B
24
0
6
19
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết đề tài
Các giải pháp chung
2.3.1. Khái niệm: 
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.[2]. 
2.3.2. Cấu tạo:
- Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề.
- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính.
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó. [3]
2.3.3. Các bước thiết kế một SĐTD: [4]
	Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:	
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được) 
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm. 
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. 
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
2.3.4. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp:
	Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên. 
	Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. 
	Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
	Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. 
2.3.5. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí:
 - Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả. Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn kuyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
 - Sơ đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm ra, lại vừa p

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_day_tiet_on_tap_dia_li_9_bang_so_do.doc