SKKN Một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại Trung tâm GDNN - GDTX huyện Hà Trung trong giai đoạn hiện nay

SKKN Một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại Trung tâm GDNN - GDTX huyện Hà Trung trong giai đoạn hiện nay

Bước vào thế kỷ XXI, nước ta đang đứng trước những thách thức vô cùng mạnh mẽ. Thế giới đang tiến như vũ bão trong khi nước ta đang ở tình trạng lạc hậu về nhiều mặt. Để vượt qua được những thách thức đó, phải phát huy được nguồn lực con người. Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quan trọng trong việc phát huy nguồn lực đó. Trong nền giáo dục của nước ta hiện nay còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng với nhu cầu phát triển của đất nước, tạo ra đội ngũ lao động có sức khoẻ, có tay nghề, có năng lực, có trí tuệ để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chỉ thị số 32/2006/CT ngày 01/8/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục chỉ rõ người quản lý là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích.

Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo bước chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ khu vực và thế giới khắc phục cách đổi mới cháp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ yêu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo.

Như vậy nâng cao hiệu quả quản lý cùng với nâng cao hiệu quả dạy và học nhằm đưa chất lượng giáo dục là vấn đề trọng tâm trước mặt và lâu dài của ngành giáo dục. Đối với ngành giáo dục thường xuyên công tác này được coi là cấp thiết.

 

doc 21 trang thuychi01 16623
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại Trung tâm GDNN - GDTX huyện Hà Trung trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài. 
Bước vào thế kỷ XXI, nước ta đang đứng trước những thách thức vô cùng mạnh mẽ. Thế giới đang tiến như vũ bão trong khi nước ta đang ở tình trạng lạc hậu về nhiều mặt. Để vượt qua được những thách thức đó, phải phát huy được nguồn lực con người. Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quan trọng trong việc phát huy nguồn lực đó. Trong nền giáo dục của nước ta hiện nay còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng với nhu cầu phát triển của đất nước, tạo ra đội ngũ lao động có sức khoẻ, có tay nghề, có năng lực, có trí tuệ để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Chỉ thị số 32/2006/CT ngày 01/8/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục chỉ rõ người quản lý là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích. 
Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo bước chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ khu vực và thế giới khắc phục cách đổi mới cháp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ yêu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo. 
Như vậy nâng cao hiệu quả quản lý cùng với nâng cao hiệu quả dạy và học nhằm đưa chất lượng giáo dục là vấn đề trọng tâm trước mặt và lâu dài của ngành giáo dục. Đối với ngành giáo dục thường xuyên công tác này được coi là cấp thiết. 
Một thực tế cho thấy, chất lượng đầu vào của học sinh Trung tâm còn nhiều hạn chế, yếu về học lực, ý thức tổ chức kỷ luật thấp. Bên cạnh đó, tư tưởng người dân không muốn cho con em học GDNN-GDTX học sinh vào học còn mặc cảm là nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dạy và học. 
Đội ngũ giáo viên đa số còn trẻ, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, cần có chiến lược tạo điều kiện để các giáo viên này yêu nghề, yên tâm công tác, tạo điều kiện để học sinh phát huy hết khả năng của mình. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên chưa nhiệt tình trong giảng dạy. Một số giáo viên còn thiếu tư tưởng tự giác học tập nâng cao chuyên môn, bằng lòng với chuyên môn hiện tại, việc thay đổi phương pháp giảng dạy còn hạn chế. Đặc biệt, việc đổi tên trung tâm với những chức năng nhiệm vụ mới đang là thử thách không nhỏ đối với người quản lý.
Nhận thức được vai trò của người quản lý trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, trong những năm qua, ban giám đốc trung tâm đã có nhiều cố gắng để đổi mới công tác quản lý đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Tuy vậy, do chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu nên chất lượng giáo dục chưa đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ những lý do như trên, là một cán bộ quản lý, tôi luôn trăn trở làm thế nào tìm ra những biện pháp quản lý cụ thể để nâng cao chất lượng giáo của trung tâm. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài "Một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung trong giai đoạn hiện nay "làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu :
Đề xuất một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
3.1: Khách thể nghiên cứu : vấn đề quản lý nâng cao chất lượng giáo ducjtaij Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung 
3.2: Đối tượng nghiên cứu: một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung tỉnh Thanh Hoá. 
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. 
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: nhằm giải quyết nhiệm vụ thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu. 
5. Những điểm mới của Sáng kiến kinh nghiệm
 Tháng 8 năm 2017 Trung tâm GDTX - DN Hà Trung đổi tên thành Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung. Ngay từ vài năm trước khi đổi tên trung tâm, là người đứng đầu đơn vị, bản thân tôi đã tập trung chỉ đạo toàn thể CB,GN,NV tham gia góp ý xây dựng dự thảo quy chế hoạt động, đề án vị trí việc làm, từ đó định hướng tốt cho CB,GV,NV về tư tưởng cũng như giúp họ xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt và những năm tới. Trên cơ sở đó giúp GB,GV,NV vững vàng về tư tưởng, xác định rõ nhiệm vụ, khắc phục được khó khăn để hoàn thành tốt công việc được giao.
Việc đổi tên trung tâm với những chức năng nhiệm vụ mới thực sự là một thử thách trong tình hình hiện nay. Để làm tốt những nhiệm vụ này đòi hỏi phải mỗi CB,GV,NV phải thực sự cố gắng nỗ lực, đặc biệt là đối với Ban Giám đốc, cần gương mấu đi đầu, tìm tòi sáng tạo để đưa Trung tâm ngày một phát triển. Việc đổi mới công tác quản lý là hết sức quan trọng.Vì vậy SKKN tập trung vào các giải pháp mới gắn với nhiệm vụ và tình hình thực tế của Trung tâm. Xác định rõ mục tiêu xuyên suốt đó là: tập trung đổi mới công tác quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn, tăng cường quản lý công tác đào tạo nghề đạt kết quả.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của SKKN
Có thể nói, đội ngũ nhà giáo cùng với các nhà quản lý là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục đào tạo của trung tâm, cho nên vấn đề đổi mới trong công tác quản lý luôn luôn là vấn đề cấp thiết. 
 1.1 Khái niệm quản lý
 Quản lý là một hoạt động bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động trong một tổ chức nhất định. Chính sự phân công, hợp tác này đòi hỏi phải có người đứng đầu, chỉ huy. Nói cách khác, phải có sự quản lý
Hiện nay, quản lý theo khoa học trở thành một yêu cầu đặt ra đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một hoạt động giữ vai trò hết sức quan trọng nhưng cũng là hoạt động rất khó khăn, phức tạp vì nó liên quan trực tiếp đến con người, đến tổ chức.
Quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đối tượng quản lí phong phú, đa dạng nên tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực hoạt động cụ thể, từng giai đoạn phát triển của xã hội mà có những cách hiểu khác nhau về quản lý
Theo F.W. Taylor, “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
Các tác giả người Mỹ như Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich cho rằng: “Quản lý bao hàm việc thiết kế một môi trường mà trong đó con người cùng làm việc với nhau trong các nhóm để thực hiện các mục tiêu của tổ chức”.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Quản lý là chức năng và hoạt động của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kỹ thuật, xã hội), bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động tối ưu và bảo đảm thực hiện những chương trình và mục tiêu của hệ thống đó ” [83; tr.580].
Theo Từ điển tiếng Việt, “Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định” [86; tr.800].
Có tác giả lại hiểu Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng và thực hiện một cách sáng tạo các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí (người quản lí) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của mình” [9; tr.6].
Quản lý vừa là một khoa học, dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật phát triển (quy luật tự nhiên hay xã hội) của các đối tượng khác nhau, vừa là một nghệ thuật, đòi hỏi phải có sự tác động thích hợp với từng khách thể quản lý.
Quản lý còn có thể được mô tả như là một chương trình của các hoạt động mà người quản lý thực hiện để đảm bảo những mục tiêu đề ra.
Còn dưới góc độ chức năng, người Quản lý phải thực hiện các chức năng cơ bản: Lập kế hoạch; Tổ chức; Lãnh đạo/Điều phối (chỉ đạo); Kiểm tra.
Qua các cách tiếp cận nêu trên có thể thấy, QL là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của tổ chức.
Từ đó, khái niệm quản lý sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm được hiểu là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các thành viên trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của tổ chức.
1.2 Khái niêm quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc biệt của con người, là hoạt động có mục đích, có chương trình, có kế hoạch. Giáo dục có hai chức năng tổng quát là ổn định, duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện hành của nền kinh tế - xã hội và thứ hai là đổi mới phát triển quá trình đào tạo, đón đầu sự tiến bộ, phát triển kinh tế - xã hội.
Lĩnh vực giáo dục cũng cần có quản lý như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Cũng như khái niệm quản lý, khái niệm quản lý giáo dục tuy vẫn còn nhiều quan điểm chưa hoàn toàn thống nhất, song đã có nhiều quan điểm cơ bản đồng nhất với nhau:
Theo P.V. Khuđôminxki: “Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ Giáo dục đến nhà trường), nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ. Trên cơ sở nhận thức và sử dụng những quy luật khách quan của quá trình dạy học, giáo dục, của sự phát triển về thể chất và tâm lý của trẻ em, thiếu niên cũng như thanh niên” .
Nhà khoa học Giáo sư Phạm Minh Hạc đã định nghĩa: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục với thế hệ trẻ và với từng học sinh”.
Đối với quản lý giáo dục cấp vi mô, tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” .
Vậy, quản lý giáo dục là sự tác động có chủ đích, có căn cứ khoa học, hợp quy luật và phù hợp các điều kiện khách quan của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm phát huy sức mạnh các nguồn lực giáo dục, từ đó đảm bảo các hoạt động của tổ chức, hệ thống giáo dục đạt được các mục tiêu đã đề ra với chất lượng, hiệu quả cao nhất.
Dựa vào phạm vi quản lý, người ta chia ra hai cấp độ quản lý giáo dục: Quản lý hệ thống giáo dục: quản lý giáo dục ở tầm vĩ mô, phạm vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ (tỉnh, thành phố). Quản lý nhà trường: quản lý giáo dục ở tầm vi mô, trong phạm vi một cơ sở giáo dục đào tạo. Ở bài viết này, tôi đề cập tới cấp độ thứ hai, đó là quản lý giáo dục ở tầm vi mô trong phạm vi Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung.
1.3. Quản lý trường học
Trường học (cơ sở giáo dục - đào tạo) là một tổ chức giáo dục mang tính Nhà nước - xã hội, là một bộ phận cấu thành của một hệ thống giáo dục, là nơi trực tiếp làm công tác đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Các trường học hoạt động theo Luật Giáo dục và Điều lệ nhà trường do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục đào tạo, đối với thế hệ trẻ và học sinh”.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, cũng nhằm huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường”.
Tóm lại, quản lý trường học có thể hiểu là sự tác động quản lý có chủ đích của Hiệu trưởng tới tất cả các yếu tố, các mối quan hệ chức năng, các nguồn lực nhằm đưa mọi hoạt động của nhà trường đạt đến mức phát triển cao nhất. 
1.4. Biện pháp quản lý 
“Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể”; hoặc “Biện pháp là cách thức giải quyết một vấn đề hoặc thực hiện một chủ trương". Tựu trung lại có thể hiểu: Biện pháp là cách làm, cách thức thực hiện tiến hành, giải quyết một công việc, hoặc là phương pháp làm việc để thực hiện một chủ trương nào đó. Vận dụng vào quản lý, thì biện pháp quản lý là cách làm, cách thức thực hiện tiến hành, giải quyết một công việc, hoặc là phương pháp làm việc để thực hiện một chủ trương nào đó để đạt tới mục tiêu quản lý.
 Như vậy, từ cơ sở lý luận trên ta thấy vai trò của nhà quản lý rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục. Người lãnh đạo, quản lý phải luôn tìm tòi, đổi mới công tác quản lý, phù hợp với tình hình thực tế nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Luật giáo dục 2005, sửa đổi năm 2009 nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ quản lý đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo và đưa ra nhiều biện pháp để đội ngũ nhà quản lý đáp ứng sự phát triển giáo dục nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
 2.1. Vài nét về Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung 
 Trung tâm GDNN-GDTX Huyện Hà Trung ngày nay có lịch sử hình thành từ phong trào Bình dân học vụ, xóa mù chữ của những năm 1960. Với tên trường lúc đó là Bổ túc văn hóa tập trung, dành riêng việc đào tạo tập trung cho cán bộ và thanh niên ưu tú có trình độ học hết cấp I, cấp II. Đến ngày 16 tháng 11 năm 1993, UBND Tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 1525/ TC- UB thành lập Trung tâm GDTX&DN Hà Trung trên cơ sở sát nhập 2 trường BTVH Huyện và Trường dạy nghề Huyện Hà Trung. Từ đó trường được đổi tên thành TTGDTX&DN Huyện Hà Trung. Tháng 8 năm 2017 Trung tâm đổi tên thành Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung.
 Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung có 30 cán bộ giáo viên, nhân viên, 100% GV đạt chuẩn và trên chuẩn, có 15 giáo viên giỏi cấp tỉnh, nhiều năm trung tâm được xếp tốp đầu trong kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, có 3 học sinh đạt giải Quốc gia.
	So với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, cơ sở vật chất tuy đã được xây dựng, tăng cường nhưng vẫn còn thiếu rất nhiều phòng chức năng, xưởng thực hành nghề. Đại bộ phận giáo viên đạt chuẩn nhưng vẫn còn 1 bộ phận giáo viên lúng túng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chưa khai thác tốt hiệu quả của thiết bị giáo dục. Tỉ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao. Một bộ phận học sinh vẫn chưa có động cơ, thái độ học tập đúng đắn nên lười học, đạo đức có phần sa sút do nhiều nguyên nhân, trong đó một phần là do phụ huynh học sinh chưa quan tâm và sự tác động của các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội.Bên cạnh đó chất lượng đào tạo nghề chưa được chú trọng, công tác tuyển sinh học nghề còn nhiều khó khăn, bất cập.
2. 2. Thực trạng việc dạy và học:
2.2.1 Thuận lợi
	- Với tỷ lệ 100% giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn, có lòng yêu nghề, tận tụy hết lòng với học sinh, có sức khoẻ tốt, nhìn chung, chất lượng giáo dục của Trung t©m khá tốt và ổn định. Tuy nhiên, vài năm gần đây chất lượng mũi nhọn từ vị trí tốp đầu xuống vị trí tốp cuối, thậm chí có năm không có học sinh nào đạt giải ( năm học 2013-2014, 2014-2015).
- Trung tâm thường xuyên nhận được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Chi bộ Đảng, nhà trường trong các lĩnh vực. 
- Đa số phụ huynh học sinh quan tâm, tạo điều kiện về mọi mặt đối với con em mình, luôn nhiệt tình ủng hộ các phong trào dạy và học của Trung tâm. 
- Trung tâm có tổ chức các chuyên đề theo kế hoạch, giáo viên đều tham gia đầy đủ. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện tốt việc đối mới phương pháp dạy học, đáp ứng yêu cầu của Bộ đề ra. 
 2.2.2. Những khó khăn
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học( nhất là dạy nghề) tuy đã được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, đẫn đến giáo viên không có điều kiện đảm bảo để thực hiện nhiệm vụ. So với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, cơ sở vật chất tuy đã được xây dựng, tăng cường nhưng vẫn còn thiếu rất nhiều phòng chức năng, xưởng thực hành nghề.
 - Cơ cấu đội ngũ còn nhiều bất cập ( thừa giáo viên văn hóa, thiếu giáo viên dạy nghề), Phần đa là nữ, đang thời kỳ nuôi con nhỏ nên phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả công tác. Đại bộ phận giáo viên đạt chuẩn nhưng vẫn còn 1 bộ phận giáo viên lúng túng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chưa khai thác tốt hiệu quả của thiết bị giáo dục. 
- Việc huy động, đảm bảo kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của đội ngũ giáo viên thiếu đồng bộ, bị ràng buộc bởi thủ tục hành chính phức tạp. 
- Công tác quản lý chưa phát huy hết các tiềm lực sẵn có trong nhà trường, chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp từ các lực lượng, các mối quan hệ tác động mạnh đến chất lượng giáo dục. 
- Nhận thức về nhiệm vụ đào tạo nghề của đội ngũ giáo viên ở trung tâm chưa cao. Việc tổ chức quán triệt nhiệm vụ cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên chưa được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định.
- Năng lực và kinh nghiệm trong hoạt động đào tạo nghề của đội ngũ giáo viên và quản lý hoạt động này của cán bộ quản lý còn bất cập, chưa có biện pháp tháo gỡ kịp thời. Sự phối hợp tổ chức và giám sát giữa các bộ phận trong trung tâm bị động, thiếu chặt chẽ, chưa ngang tầm với nhiệm vụ. 
- Về phía học sinh: Do có nhiều học sinh có lực học yếu, lại ở địa bàn xa trường nên việc đi lại gặp khó khăn, chất lượng đầu vào thấp nên tỉ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao. Một bộ phận học sinh vẫn chưa có động cơ, thái độ học tập đúng đắn nên lười học, đạo đức có phần sa sút do nhiều nguyên nhân, trong đó một phần là do một bộ phận phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập và tu dưỡng đạo đức của con em mình. Hơn nữa, các tệ nạn xã hội, mặt trái của cơ chế thị trường ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình giảng dạy và giáo dục. 
3. Một số giải pháp trong công tác quản lý đã sử dụng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tại Trung tâm GDNN-GDTX Hà Trung 
Căn cứ về đặc thù đối tượng học sinh và cán bộ giáo viên cũng như thực trạng dạy và học của Trung tâm, qua quá trình công tác, bản thân xin nêu ra một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Hà Trung . 
3.1. Tăng cường giáo dục đạo đức, thắt chặt nề nếp kỉ cương dạy và học 
 Mục tiêu giáo dục đạo đức là giáo dục nhân cách sống và làm việc mà cụ thể là giáo dục tác phong, lối sống, cách ăn mặc lành mạnh, giáo dục cách cư xử giao tiếp thông thường qua việc làm nề nếp, qua các bài giảng, nhất là các môn khoa học xã hội nhân văn, các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Thực tế chương trình học văn hóa tại trung tâm học sinh chỉ học 7 môn văn hóa, không học môn giáo dục công dân. Đây cũng là một khó khăn trong giáo dục đạo đức cho học sinh. Vì vậy cần tăng cường thời gian hoạt động ngoài giờ để giáo dục đạo đức, ý thức nề nếp cho học sinh, từ đó hình thành nhân cách cho các em. 
Thường xuyên quan tâm chỉ đạo phổ biến, giáo dục pháp luật đến toàn thể CBGV-NV-HS trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, buổi chào cờ, sinh hoạt lớp, các buổi hoạt động ngoại khóa, các hội thi và đặc biệt được lồng ghép tích hợp vào các môn học, các tiết học.Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật, sân khấu hoá các cuộc thi để Chỉ thị, Nghị quyết của đảng dễ dàng đến được với thanh niên, học sinh. Giáo dục truyền thống nhân những ngày kỷ niệm lớn của dân tộc.
 Công tác giáo dục chính trị tư tưởng phải được đặt lên hàng đầu trong kế hoạch của trung tâm, tập trung xây dựng cho được các quy định, nội quy, nề nếp của trung tâm. Tổ chức thực hiện nội quy, quy chế thành một thói quen, nề nếp, đồng thời cũng tích cực giám sát, động viên, kiểm tra để quy chế được thực hiện thường xuyên và đầy đủ. 
 Đẩy mạnh công tác quản lý đối với hàng ngũ giáo viên chủ nhiệm thường xuyên duy trì giờ sinh hoạt, phối kết hợp Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, xây dựng nề nếp học tập tranh thủ mọi cơ hội để giáo dục đạo 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_trong_cong_tac_quan_ly_nham_nang_cao_c.doc