SKKN Một số giải pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong

SKKN Một số giải pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong

I. Cơ sở lí luận của vấn đề

Theo Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu

học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025” phấn

đấu đến năm 2020, hằng năm, 100% học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số

được tập trung tăng cường tiếng Việt.

Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Quốc gia, được sử dụng trong

nhà trường. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, tiếng Việt có vai trò đặc biệt

quan trọng. Việc không thông thạo tiếng Việt sẽ là rào cản rất lớn trong quá

trình nắm bắt tri thức của học sinh.

Tiếng Việt, nội hàm nó là một môn khoa học – ngôn ngữ học. Theo các nhà ngôn ngữ học đánh giá thì tiếng Việt là một trong những ngôn ngữ giàu đẹp và trong sáng. Trong hệ thống Giáo dục quốc dân Việt Nam, tiếng Việt là một môn học chính đồng thời cũng là phương tiện để truyền tải kiến thức của các môn học khác. Trong xã hội Việt Nam, tiếng Việt là ngôn ngữ chính dùng để giao tiếp trong cuộc sống, trong pháp luật, trong các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội,

Thế nào là học sinh dân tộc thiểu số?

Học sinh dân tộc thiểu số là học sinh thuộc thành phần dân tộc có số dân ít trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, học tập trong các trường phổ thông bằng ngôn ngữ thứ hai.

Tăng cường tiếng Việt là gì?

Tăng cường tiếng Việt là hoạt động nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết nói ít tiếng Việt có thể học tập các môn học trong hệ thống Giáo dục sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức. Tăng cường tiếng Việt được thực hiện xuyên suốt đồng thời với chương trình Tiểu học, chú trọng trong các môn như Tiếng Việt, Toán, Tự nhiên và Xã hội và các hoạt động giáo dục. Yêu cầu của tăng cường tiếng Việt là làm thế nào để giáo viên có thể dạy và học sinh dân tộc thiểu số có thể học chương trình Tiểu học một cách hiệu quả trong môi trường học tập của địa phương, chú ý đến những khó khăn về ngôn ngữ mà các em phải vượt qua để học được các môn học bằng tiếng Việt.

Vì sao phải tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số?

Tăng cường tiếng Việt là cần thiết cho tất cả học sinh; đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số lại càng cấp thiết, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số.

Tăng cường tiếng Việt để đảm bảo công bằng trong Giáo dục.

Tăng cường tiếng Việt phải đảm bảo các nguyên tắc sư phạm sau:

- Giúp học sinh dân tộc thiểu số tiếp cận với các kiến thức và kĩ năng các môn học thông qua kinh nghiệm theo mức độ từ dễ đến khó.

- Coi trọng hoạt động hợp tác giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh.

- Chú ý đến học sinh, đến cuộc sống và môi trường học tập của các em, tạo điều kiện để học sinh được học tập theo đặc điểm cá nhân.

- Thực hiện các phương pháp học tập khác nhau, các cách học tập khác nhau, kích thích sự tích cực của học sinh.

- Tập trung vào sự phát triển của học sinh và vào việc học sinh biểu hiện kết quả học tập như là một phần của quá trình học tập; coi đánh giá kết quả học tập là nguồn thông tin hữu ích để phản hồi lại cho việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh; ghi nhận sự thành công hơn là băn khoăn về sự thất bại.

Tăng cường tiếng Việt là một trong những giải pháp nhằm giúp học

sinh dân tộc thiểu số có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn

thành chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức

của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh

dân tộc thiểu số trong nhà trường.

 

doc 28 trang hoathepmc36 28/02/2022 8646
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học Lê Hồng Phong", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
TT
Nội dung đề mục
Trang
1
 Phần mở đầu
2
2
I. Đặt vấn đề
2
3
II. Mục đích nghiên cứu
3
4
Phần thứ 2: Giải quyết vấn đề
3
5
 I.Cơ sở lý luận của vấn đề
3
6
 II.Thực trạng vấn đề
5
7
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
6
8
Giải pháp 1: Tổ chức, phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường; quản lý các điều kiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh DTTS
6
9
Giải pháp 2: Chỉ đạo sử dụng hiệu quả các phương pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số (thông qua các hình thức vui chơi, tạo môi trường giao tiếp tiếng Việt,)
11
10
Giải pháp 3: Tăng cường tiếng Việt qua việc biết khai thác triệt để vốn sống, các mối quan hệ cộng đồng, phong tục tập quán của địa phương
15
11
IV. Tính mới của giải pháp
20
12
V. Hiệu quả SKKN
21
13
Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị
23
14
I. Kết luận
23
15
II. Kiến nghị
24
16
Nhận xét của hội đồng sáng kiến cấp trường
25
17
Nhận xét của hội đồng sáng kiến cấp huyện
26
18
Tài liệu tham khảo
27
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
	I. Đặt vấn đề
	Lý do lý luận: Tiếng Việt là một môn học hết sức quan trọng đối với tất cả các bậc học của nước ta hiện nay. Với học sinh là người dân tộc thiểu số, việc tăng cường tiếng Việt nhằm nâng cao chất lượng giáo dục là một trong những vấn đề đang được các cấp, các ngành, các trường học đặc biệt quan tâm. Tiếng Việt trong nhà trường tồn tại với hai tư cách: vừa là một môn học vừa là công cụ giao tiếp, học tập của học sinh. Do đó, trình độ tiếng Việt (vốn từ, kiến thức về tiếng Việt và kỹ năng sử dụng vốn từ trong học tập, giao tiếp) có vai trò và ảnh hưởng rất quan trọng đối với khả năng học tập các môn học của học sinh. 
Tiếng Việt có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con người; đặc biệt đối với học sinh dân tộc thiểu số (HSDTTS) thì việc nghe, nói, đọc, viết và hiểu được tiếng Việt là một điều rất khó khăn. Với chương trình giáo dục phổ thông hiện hành đang được thực hiện trên toàn quốc, toàn thể học sinh trên mọi vùng miền cùng được học chung một bộ sách giáo khoa. Kết thúc khóa học mỗi học sinh đều phải đạt chuẩn kiến thức kỹ năng mà BGD&ĐT đã ban hành. Nói riêng về môn Tiếng Việt, chương trình dạy học đang áp dụng ở trường tiểu học hiện nay được xây dựng trên nguyên tắc dạy tiếng Việt cho người học tiếng mẹ đẻ (Tiếng phổ thông). Để có kỹ năng học theo phương pháp học tập mới, làm việc hợp tác, trước hết các em cần có vốn ngôn ngữ. Vì vậy hơn bao giờ hết chúng ta cần nâng cao chất lượng học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số góp phần quan trọng nhằm nâng cao dân trí, góp phần ổn định cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số; rút ngắn khoảng cách chất lượng giữa học sinh dân tộc thiểu số với học sinh người Kinh.
Khi đến trường, học sinh người Kinh đã có vốn tiếng Việt đủ để tìm hiểu thế giới xung quanh, còn học sinh dân tộc thiểu số thì khác, trước khi đi học các em mới chỉ nắm vững tiếng mẹ đẻ và phát triển nhận thức bằng tiếng mẹ đẻ chứ không phải bằng tiếng Việt. Vốn tiếng Việt của các em rất nghèo nàn có thể nói là rất ít. Với học sinh có một chút ít vốn tiếng Việt thì lại chưa chuẩn xác trong cách phát âm và sử dụng. Khi bắt đầu vào học lớp 1, các em mới bắt đầu học tiếng Việt và giao tiếp chủ yếu bằng tiếng Việt do đó việc dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là việc làm cần thiết. 
Lý do thực tiễn: Thực tiễn cho thấy do điều kiện kinh tế của phần đa dân tộc thiểu số rất khó khăn vì thế các bậc phụ huynh thường ít quan tâm đến việc học hành của con. Trẻ em thường phải nghỉ học để phụ giúp gia đình công việc nương rãy, trông em hoặc chăn bò, dê; tỷ lệ đi học chuyên cần của học sinh không cao vì thế phần nào ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em. 
Do sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau trong quá trình dạy học, chất lượng học tiếng Việt của học sinh dân tộc chưa cao, kéo theo sự hạn chế về phát triển năng lực tư duy, ít nhiều tạo ra bất lợi cho việc đạt đến những chuẩn mực trong mục tiêu giáo dục tiểu học. Ở vùng đặc biệt khó khăn, dân cư 100% là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), việc bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trò, làm ảnh hưởng đến giao tiếp giữa cô và trò.
 Học sinh dân tộc thiểu số có nhiều đặc thù riêng về hoàn cảnh sống và tư duy suy nghĩ. Làm thế nào để chất lượng dạy và học được nâng cao? Làm thế nào để đào tạo ra những con người có tri thức, có nhân cách, những người có đủ “đức, trí, thể, mĩ”? Đó vẫn còn là một câu hỏi, khó có lời giải trọn vẹn.
Là một cán bộ quản lý giáo dục của nhà trường, trong quá trình giảng dạy và công tác, bản thân tôi thường xuyên trăn trở, suy nghĩ tìm giải pháp để cùng tập thể sư phạm nhà trường và lãnh đạo địa phương từng bước tháo gỡ khó khăn, khai thác các điều kiện thuận lợi và các nguồn lực để áp dụng vào thực tế nhà trường, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên do sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau trong quá trình dạy học, những năm vừa qua chất lượng của học sinh dân tộc thiểu số còn thấp kéo theo chất lượng giáo dục của nhà trường. Vì vậy kết thúc mỗi năm học, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học vẫn còn, ảnh hưởng đến công tác phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Với tầm quan trọng và cần thiết của việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc thiểu số nói chung và học sinh dân tộc thiểu số ở trường tiểu học Lê Hồng Phong nói riêng nên tôi đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài "Một số giải pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở trường tiểu học Lê Hồng Phong". Với mong muốn được góp phần nhỏ cùng tập thể giáo dục nhà trường và nhân dân địa phương tìm ra hệ thống các giải pháp phù hợp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh trường tiểu học.
II. Mục đích nghiên cứu: 
Tìm hiểu các biện pháp chỉ đạo việc dạy và học, công tác phối hợp cùng với cộng đồng cùng tham gia tăng cường và học tiếng Việt nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh dân tộc thiểu số.
Nghiên cứu thực trạng khả năng sử dụng tiếng Việt, những hạn chế, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. 
Nghiên cứu, đưa ra một số phương pháp, hình thức tổ chức tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy - học. 
Hỗ trợ cho giáo viên trong công tác tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Cơ sở lí luận của vấn đề
Theo Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu 
học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025” phấn 
đấu đến năm 2020, hằng năm, 100% học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số 
được tập trung tăng cường tiếng Việt.
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Quốc gia, được sử dụng trong 
nhà trường. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, tiếng Việt có vai trò đặc biệt 
quan trọng. Việc không thông thạo tiếng Việt sẽ là rào cản rất lớn trong quá 
trình nắm bắt tri thức của học sinh.
Tiếng Việt, nội hàm nó là một môn khoa học – ngôn ngữ học. Theo các nhà ngôn ngữ học đánh giá thì tiếng Việt là một trong những ngôn ngữ giàu đẹp và trong sáng. Trong hệ thống Giáo dục quốc dân Việt Nam, tiếng Việt là một môn học chính đồng thời cũng là phương tiện để truyền tải kiến thức của các môn học khác. Trong xã hội Việt Nam, tiếng Việt là ngôn ngữ chính dùng để giao tiếp trong cuộc sống, trong pháp luật, trong các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội,
Thế nào là học sinh dân tộc thiểu số?
Học sinh dân tộc thiểu số là học sinh thuộc thành phần dân tộc có số dân ít trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, học tập trong các trường phổ thông bằng ngôn ngữ thứ hai.
Tăng cường tiếng Việt là gì?
Tăng cường tiếng Việt là hoạt động nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết nói ít tiếng Việt có thể học tập các môn học trong hệ thống Giáo dục sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức. Tăng cường tiếng Việt được thực hiện xuyên suốt đồng thời với chương trình Tiểu học, chú trọng trong các môn như Tiếng Việt, Toán, Tự nhiên và Xã hội và các hoạt động giáo dục. Yêu cầu của tăng cường tiếng Việt là làm thế nào để giáo viên có thể dạy và học sinh dân tộc thiểu số có thể học chương trình Tiểu học một cách hiệu quả trong môi trường học tập của địa phương, chú ý đến những khó khăn về ngôn ngữ mà các em phải vượt qua để học được các môn học bằng tiếng Việt. 
Vì sao phải tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số?
Tăng cường tiếng Việt là cần thiết cho tất cả học sinh; đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số lại càng cấp thiết, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số.
Tăng cường tiếng Việt để đảm bảo công bằng trong Giáo dục.
Tăng cường tiếng Việt phải đảm bảo các nguyên tắc sư phạm sau:
Giúp học sinh dân tộc thiểu số tiếp cận với các kiến thức và kĩ năng các môn học thông qua kinh nghiệm theo mức độ từ dễ đến khó.
- Coi trọng hoạt động hợp tác giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh.
- Chú ý đến học sinh, đến cuộc sống và môi trường học tập của các em, tạo điều kiện để học sinh được học tập theo đặc điểm cá nhân. 
- Thực hiện các phương pháp học tập khác nhau, các cách học tập khác nhau, kích thích sự tích cực của học sinh.
- Tập trung vào sự phát triển của học sinh và vào việc học sinh biểu hiện kết quả học tập như là một phần của quá trình học tập; coi đánh giá kết quả học tập là nguồn thông tin hữu ích để phản hồi lại cho việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh; ghi nhận sự thành công hơn là băn khoăn về sự thất bại. 
Tăng cường tiếng Việt là một trong những giải pháp nhằm giúp học 
sinh dân tộc thiểu số có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn 
thành chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức 
của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh 
dân tộc thiểu số trong nhà trường.  
II. Thực trạng vấn đề: 
Trường Tiểu học Lê Hồng Phong được thành lập năm 1982 với ba điểm trường đóng trên địa bàn 3 thôn, buôn với 2 điểm lẻ đóng trên 2 buôn đặc biệt khó khăn của xã Eana. Tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số hàng năm chiếm trên 32% tổng số học sinh toàn trường. Trong những năm học vừa qua, luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo, chính quyền địa phương, lãnh đạo nhà trường luôn xác định đúng tầm quan trọng của việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số vì vậy đã xây dựng được kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ, đưa ra một số biện pháp phù hợp để tăng cường tiếng Việt cho học sinh. Hàng năm, 100% số học sinh dân tộc thiểu số trong toàn trường được tăng cường tiếng Việt. Chất lượng giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng. Công tác quản lý dạy và học từng bước chuyển biến rõ rệt về chất lượng, đặc biệt là môn tiếng Việt. 
Hầu hết các em sống trong buôn Eana và buôn Drai thuộc diện gia đình có hoàn cảnh khó khăn, trình độ dân trí thấp, nhận thức về giáo dục và chăm lo việc học hành của cha mẹ học sinh đối với con em còn nhiều hạn chế. Có một số cha mẹ học sinh vốn tiếng Việt rất ít, ngại giao tiếp với thầy cô. Vì vậy việc hướng dẫn, hỗ trợ học tập cho con em ở nhà gặp không ít khó khăn.
Đội ngũ giáo viên chủ yếu là người dân tộc Kinh (chỉ có 01 giáo viên là người dân tộc tại chỗ) hầu hết giáo viên không biết nói tiếng dân tộc thiểu số cũng như không hiểu biết nhiều về phong tục, tập quán của đồng bào nên công tác vận động học sinh ra lớp, phối hợp với cha mẹ học sinh để tăng cường tiếng Việt, nâng cao chất lượng dạy học còn nhiều hạn chế. Tiếng Việt vừa là môn học cơ bản, vừa là môn học công cụ để học sinh tiếp thu tri thức và kỹ năng của các bộ môn khác trong chương trình giáo dục. Tuy nhiên, do sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau trong quá trình dạy học, chất lượng học tiếng Việt của học sinh dân tộc chưa cao, kéo theo sự hạn chế về phát triển năng lực tư duy, ít nhiều tạo ra bất lợi cho việc đạt đến những chuẩn mực trong mục tiêu giáo dục của bậc học. Việc giảng dạy mang tính áp đặt, khô khan do giáo viên “tham” và sợ nên cố truyền đạt những kiến thức có trong sách giáo khoa mà không giành thời gian để tạo ra sự hứng thú, sân chơi cho học sinh được nói, viết tiếng Việt là một hạn chế rất lớn trong quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh đặc biệt là đối với học sinh là người dân tộc thiểu số. 
Một số cha mẹ chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em nhiều em học sinh vì hoàn cảnh gia đình hoặc vì tiếp thu chậm nên chán học, bỏ buổi học đi chơi hoặc ở nhà giúp đỡ gia đình như giữ em, chăn bò,... Khi vào thăm, khảo sát thực tế ở các gia đình thì đa số không có bàn ghế, góc học tập riêng để các em học ở nhà và đa phần các gia đình không quan tâm tới việc sử dụng tiếng Việt của con em về nhà thế nào, không sắp xếp thời gian biểu cũng như tạo điều kiện cho các em học tập. Vì vậy chất lượng giáo dục HSDTTS còn hạn chế, tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học hàng năm vẫn còn, một số ít học sinh chưa có niềm vui khi đến lớp; trước khi thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành khảo sát kỹ năng sử dụng tiếng Việt của HSDTTS, kết quả đạt như sau:
Thời gian khảo sát
TSHS DTTS
Có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt, đáp ứng được yêu cầu học tập
Kỹ năng sử dụng tiếng Việt còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu học tập
TSHS
Tỷ lệ
TSHS
Tỷ lệ
Học kỳ 1
160
140
87,5%
20
12,5%
Học kỳ 2
160
148
92,5%
12
7,5%
Bảng 1: Kết quả khảo sát kỹ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh DTTS 
Bản thân bằng những kinh nghiệm thực tế giảng dạy và quản lý đã tích lũy nhiều năm rút ra được một số giải pháp có hiệu quả trong thực hiện tại đơn vị từ năm học 2017- 2018 đến nay (có thể các đơn vị khác và các bạn đồng nghiệp đã thực hiện một trong những giải pháp này nhưng với các biện pháp thực hiện mà tôi đưa ra cách thực hiện khác và đem lại hiệu quả cao nếu biết phối hợp cả giải pháp mới và cũ) để cùng đồng nghiệp chia sẻ. Thiết nghĩ, nếu những trường có nhiều học sinh dân tộc thiểu số mà thực trạng giống như trường tiểu học Lê Hồng Phong mà áp dụng một cách khoa học, phù hợp tại đơn vị chắc chắn chất lượng giáo dục học sinh dân tộc thiểu số sẽ được nâng lên.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 
Giải pháp 1: Tổ chức, phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường; quản lý các điều kiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh DTTS.
1.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về việc tăng cường tiếng Việt cho HSDTTS.
Bác Hồ đã chỉ rõ: “Giáo dục các em là việc chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách, trước hết là phải làm gương cho các em hết mọi việc". Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác giáo dục học sinh. 
Làm tốt công tác phối kết hợp để tuyển sinh vào lớp 1 và “ Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường ” 
+ Từ đầu tháng 6, lãnh đạo nhà trường cùng các đoàn thể của nhà trường tích cực tham mưu với cấp ủy, chính quyền phối hợp cùng các ban ngành đoàn thể địa phương tập trung tuyên truyền lồng ghép trong các buổi họp thôn buôn, thông qua đài truyền thanh của xã về “ Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường ”. Làm tốt công tác tuyển sinh trẻ trong độ tuổi vào lớp 1(hình 1). Đối với những gia đình ông, bà già nuôi cháu trong buôn, chúng tôi phân công giáo viên đến tận nhà học sinh để vận động ông, bà của học sinh đưa các em đến trường nhập học.
Hình 1. Nhà trường tham gia tuyên truyền “Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường),
tăng cường sử dụng tiếng Việt tại Đại hội chi bộ buôn Eana và họp dân ở buôn Drai.
+ Sau buổi tựu trường, chỉ đạo giáo viên nắm tình hình sĩ số học sinh đến lớp, tìm hiểu nguyên nhân những học sinh chưa ra lớp, phối hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh, chính quyền thôn buôn tìm biện pháp vận động phù hợp với từng đối tượng học sinh để huy động tối đa số học sinh trong độ tuổi đến trường. Thường xuyên kiểm tra việc đi học chuyên cần của học sinh nhằm phát hiện kịp thời những đối tượng học sinh có nguy cơ bỏ học để có giải pháp khắc phục, không để học sinh bỏ học lâu ngày rồi mới tìm hiểu nguyên nhân và vận động. 
+ Huy động các nguồn lực xã hội hóa và các lực lượng tích cực vận động học sinh đi học, học sinh bỏ học trở lại trường, hỗ trợ kịp thời những gia đình khó khăn để con em họ được đến trường như: hỗ trợ quần áo, sách vở, đồ dùng học tập, bàn ghế, 
Hình 2. Tặng quà cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn đầu năm học mới
tại phân hiệu buôn Drai và phân hiệu Eana.
 - Làm tốt công tác phối hợp với cha mẹ học sinh và các đoàn thể để duy trì tỷ lệ chuyên cần và ý nghĩa của việc học tiếng Việt. 
+ Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm công tác duy trì sĩ số, 
đảm bảo chuyên cần như: ngay sau khi tổ chức bàn giao chất lượng học sinh,
chúng tôi tổ chức giao nhiệm vụ, chỉ tiêu duy trì sĩ số học sinh cho từng giáo viên chủ nhiệm lớp, xem đó là một trong những tiêu chí quan trọng để xét thi đua cuối năm. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm kiểm tra thường xuyên việc đi học chuyên cần của học sinh. Nếu học sinh nghỉ học không có lý do quá hai ngày thì giáo viên chủ nhiệm và ban giám hiệu nhà trường kịp thời phối hợp ban đại diện cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương có biện pháp vận động học sinh đi học lại. 
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của việc người dân tộc thiểu số học tốt tiếng Việt nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bậc cha mẹ, học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và cộng đồng đối với việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người DTTS. (Ví dụ: Tuyên truyền qua thông tin đại chúng, qua các buổi họp của buôn, các ngày lễ của đạo Tin lành trong buôn. Lãnh đạo nhà trường phối hợp với Đoàn thể nhà trường có giáo viên là người dân tộc thiểu số cùng tham gia vào các buổi họp buôn, các ngày lễ).
Muốn công tác phối hợp đạt hiệu quả cao, trước hết nhà trường phải thực sự là trung tâm văn hóa giáo dục ở địa phương. Luôn gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở địa phương. Từ đó, địa phương sẽ đồng thuận, đồng lòng, đồng sức tham gia xây dựng nhà trường, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên.
1.2. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch, triển khai, tổ chức thực hiện việc dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số.
Chất lượng học tập của học sinh DTTS phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phương pháp học, thái độ học và kỹ năng học. Các em hầu hết rất yếu về phương pháp học tập, thái độ học tập và chưa có thói quen tự học. 
- Chỉ đạo giáo viên phải bám sát vào đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch giảng dạy đạt chất lượng tốt. 
+ Tiếp thu bài chậm là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh dễ chán học và bỏ học. Để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh ở vùng đặc biệt khó khăn, có nhiều học sinh dân tộc thiểu số, người giáo viên không chỉ cần có chuyên môn tốt mà còn phải có sự kiên trì, tận tụy, hiểu tâm lý học sinh. 
+ Nếu người giáo viên sử dụng phương pháp dạy học không phù hợp có thể khiến các em nẩy sinh tâm lý "sợ học". Vì vậy, dạy kiến thức vừa sức với học sinh nhưng  đảm bảo chuẩn kiến thức và thu hút được các em trong học tập. 
- Để thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh, ngay từ đầu năm học, chúng tôi đã chỉ đạo giáo viên tổ chức khảo sát chất lượng học sinh. Thông qua khảo sát, giáo viên nắm bắt trình độ nhận thức của từng em, phân loại các đối tượng học sinh trong lớp từ đó xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp.
- Khuyến khích giáo viên tăng cường sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, 
tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh dân 
tộc thiểu số theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học 
sinh. Tổ chức các tiết học vui tươi, nhẹ nhàng, hiệu quả, kích thích được sự 
khám phá, tìm tòi, tạo hứng thú cho các em trong học tập. Tạo nhiều cơ hội để 
học sinh được giao tiếp bằng tiếng Việt trong các hoạt động học, cần tránh sự 
căng thẳng, khô cứng trong các tiết học 
Hình 3. Các tiết học tăng cường tiếng Việt thú vị
Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm, giáo 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_tang_cuong_tieng_viet_cho_hoc_sinh_dan.doc