SKKN Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng CSVC – TBDH ở trường THPT
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; công nghệ được đổi mới hết sức nhanh chóng. Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh của mọi quốc gia trên thế giới. Việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài là việc làm trở nên hết sức cấp bách. Ngành GD - ĐT nước ta kể từ sau Nghị quyết hội nghị Trung ương II khoá VIII của Đảng, đã có những chuyển biến to lớn. Nhất là là sự quan tâm của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với công tác GD - ĐT.
Tầm quan trọng của Cơ sở vật chất - Thiết bị dạy học (CSVC-TBDH) ở cơ sở giáo dục nói chung, ở trường THPT nói riêng được khẳng định từ: Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc, đến các văn bản của Quốc hội, của Chính phủ và Bộ giáo dục – đào tạo như: Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X; XI đã chỉ rõ: “ Tạo bước chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục đào tạo, trong đó ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường ”; Thông tư số 47/2012/TT- BGD ĐT ngày 07/12/2012 về qui chế công nhận trường Trung học cơ sở, trường THPT và trường THPT có nhiều cấp học đạt chuẩn quốc gia; Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành điều lệ trường Phổ Thông; Công văn 4381/BGD ĐT- CSVCTBDH, ngày 6/7/2011 Đã khẳng định CSVS – TBDH là phương tiện lao động của các nhà giáo và học sinh, là một trong các điều kiện thiết yếu để tiến hành quá trình dạy học – giáo dục trong nhà trường, thiếu điều kiện này thì quá trình đó diễn ra ở dạng không thể hoàn thiện. Nghị quyết 40/2000/QH10, ngày 9/12/2000 của Quốc Hội khoá XI đã nêu “ Đổi mới nội dung chương trình, SGK, Phương pháp dạy và học phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học ”.
Hiện nay chúng ta đang tiến hành đổi mới giáo dục với mục tiêu đến năm 2020: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả” ( Nghị quyết Số: 29-NQ/TW8 Khóa XI ngày 4 tháng 11 năm 2013). Giáo dục Việt Nam được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ” (Chiến lược phát triển GD & ĐT giai đoạn 2011- 2020), thì CSVC-TBDH là tiền đề quan trọng của việc thực hiện phương pháp dạy học mới, nó là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa học và hành, là thành tố quan trọng đảm bảo phương pháp, chất lượng dạy học bởi Không thể nói đến giáo dục toàn diện một khi không có CSVC -TBDH trường học.
1. MỞ ĐẦU 1.1- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; công nghệ được đổi mới hết sức nhanh chóng. Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh của mọi quốc gia trên thế giới. Việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài là việc làm trở nên hết sức cấp bách. Ngành GD - ĐT nước ta kể từ sau Nghị quyết hội nghị Trung ương II khoá VIII của Đảng, đã có những chuyển biến to lớn. Nhất là là sự quan tâm của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với công tác GD - ĐT. Tầm quan trọng của Cơ sở vật chất - Thiết bị dạy học (CSVC-TBDH) ở cơ sở giáo dục nói chung, ở trường THPT nói riêng được khẳng định từ: Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc, đến các văn bản của Quốc hội, của Chính phủ và Bộ giáo dục – đào tạo như: Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X; XI đã chỉ rõ: “ Tạo bước chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục đào tạo, trong đó ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường”; Thông tư số 47/2012/TT- BGD ĐT ngày 07/12/2012 về qui chế công nhận trường Trung học cơ sở, trường THPT và trường THPT có nhiều cấp học đạt chuẩn quốc gia; Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành điều lệ trường Phổ Thông; Công văn 4381/BGD ĐT- CSVCTBDH, ngày 6/7/2011Đã khẳng định CSVS – TBDH là phương tiện lao động của các nhà giáo và học sinh, là một trong các điều kiện thiết yếu để tiến hành quá trình dạy học – giáo dục trong nhà trường, thiếu điều kiện này thì quá trình đó diễn ra ở dạng không thể hoàn thiện. Nghị quyết 40/2000/QH10, ngày 9/12/2000 của Quốc Hội khoá XI đã nêu “ Đổi mới nội dung chương trình, SGK, Phương pháp dạy và học phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”. Hiện nay chúng ta đang tiến hành đổi mới giáo dục với mục tiêu đến năm 2020: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả” ( Nghị quyết Số: 29-NQ/TW8 Khóa XI ngày 4 tháng 11 năm 2013). Giáo dục Việt Nam được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (Chiến lược phát triển GD & ĐT giai đoạn 2011- 2020), thì CSVC-TBDH là tiền đề quan trọng của việc thực hiện phương pháp dạy học mới, nó là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa học và hành, là thành tố quan trọng đảm bảo phương pháp, chất lượng dạy học bởi Không thể nói đến giáo dục toàn diện một khi không có CSVC -TBDH trường học. Ở trường THPT vấn đề quản lý và sử dụng CSVC – TBDH luôn được các nhà quản lý giáo dục quan tâm, nhưng trong thực tế còn nhiều bất cập, chưa thực sự đảm bảo yêu cầu phát triển của nhà trường trong thời kỳ CNH - HĐH, kĩ năng sử dụng CSVC – TBDH của một bộ phận khá lớn Giáo viên - Học sinh còn nhiều bất cập, hiệu quả không cao, đòi hỏi phải có sự đổi mới để phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng cụ thể, sự đổi mới đó được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết trong đổi mới công tác quản lý CSVC – TBDH ở trường học theo quan điểm hiệu quả hiện nay, bởi lẽ: CSVC - TBDH chỉ phát huy tác dụng làm cho quá trình giáo dục diễn ra có hiệu quả, nếu như nó thực sự trở thành một nhân tố của quá trình giáo dục – phù hợp với mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục. Là một cán bộ được phân công phụ trách quản lý trực tiếp mảng CSVC – TBDH của nhà trường, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm các giải pháp để quản lý tốt mảng hoạt động này nhằm thực hiện tốt mục tiêu của nhà trường THPT trong giai đoạn hiện nay. Từ những lý do khách quan và chủ quan trên đây tôi mạnh dạn đưa ra: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CSVC – TBDH Ở TRƯỜNG THPT” 1.2- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Sáng kiến kinh nghiệm nhằm đề xuất một số giải pháp trong đổi mới công tác quản lý CSVC – TBDH ở trường THPT mà tôi đã tích lũy được, cùng chia sẻ với đồng nghiệp, góp phần nhỏ bé của mình trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng CSVC – TBDH của các nhà trường từ đó nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện, đạt được mục tiêu của từng nhà trường cũng như mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục nước ta trong giai đoạn CNH – HĐH ngày nay. Những kinh nghiệm có được đảm bảo 3 mục tiêu về: Tổ chức xây dựng, tổ chức sử dụng và tổ chức bảo quản, cùng đảm bảo 4 nguyên tắc quản lý về: tính mục đích; tính phù hợp, tính kế thừa – phát triển và tuân thủ chu trình quản lý, phù hợp với thực tiễn CSVC – TBDH, đối tượng học tập của nhiều trường THPT tỉnh nhà . 1.3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp quản lý việc tự làm, sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học ở Trường THPT Hàm Rồng. Nghiên cứu việc tự làm, sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học của giáo viên; cách sắp xếp, theo dõi, bảo quản thiết bị dạy học của nhân viên thiết bị; cách quản lý việc tự làm, sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học của Trường THPT Hàm Rồng. Thời gian nghiên cứu, áp dụng: Từ tháng 9/2017 đến hết tháng 3/2018. 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau: - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, các văn bản pháp qui về CSVC, TBDH. - Phương pháp khảo sát, điều tra biểu mẫu, số liệu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ CSVC – TBDH: 2.1.1. Cơ sở lý luận: + CSVC và TBDH là tất cả các phương tiện vật chất được huy động vào việc giảng dạy, học tập và các hoạt động mang tính giáo dục khác để đạt được mục đích giáo dục. Nội dung CSVC và TBDH gồm: Trường học, sách giáo khoa, sách tham khảo, thư viện trường học, thiết bị dạy học, các phương tiện kĩ thuật dạy học khác. Quá trình dạy học, giáo dục cấu thành bởi nhiều thành tố có liên quan chặt chẽ và tương tác với nhau. Các thành tố cơ bản cấu thành quá trình dạy học là: Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp - Giáo viên - Học sinh - Thiết bị giáo dục. Có thể diễn tả các thành tố cấu thành quá trình dạy học và mối quan hệ giữa chúng bằng sơ đồ sau đây: Mục tiêu Phương. pháp CSVC SP Học sinh Giáo viên Nội dung Môi trường XH, TN Môi trường XH, TN Theo sơ đồ các cặp thành tố có quan hệ tương hỗ hai chiều, việc điều khiển tối ưu các mối quan hệ giữ các thành tố có thể coi là một nghệ thuật về mặt sư phạm; CSVC và TBDH có mặt trong quá trình nêu trên có vai trò như các thành tố khác và không thể thiếu một thành tố nào. Như vậy, CSVC và TBDH là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của quá trình giáo dục, dạy học. + CSVC và TBDH là một bộ phận nội dung và phương pháp dạy học: Lí luận dạy học đã khẳng định quá trình dạy và học là một quá trình trong đó hoạt động dạy và hoạt động học phải là một hoạt động khăng khít giữa các đối tượng xác định và có mục đích nhất định. Để quá trình dạy học có chất lượng và hiệu quả cao, từ xa xưa con người đã tìm ra và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau cho mục đích này và theo đó, CSVC và TBDH phục vụ cho phương pháp dạy học cũng ra đời và phát triển, các yếu tố của quản lí giáo dục cũng xuất hiện. Mục tiêu và nội dung học tập của nhà trường phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế - xã hội vĩ mô, còn sách giáo khoa và TBDH một mặt phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế - xã hội, mặt khác còn chịu ảnh hưởng của khoa học công nghệ đương thời. Ngày nay, khi khoa học và công nghệ trong xã hội tiến bộ vượt bậc, sự tiến bộ đó cũng được phản ánh vào hệ thống CSVC và TBDH của nhà trường. Đứng về mặt nội dung và phương pháp dạy học thì CSVC và TBDH đóng vai trò hỗ trợ tích cực, vì có TBDH tốt thì ta mới có thể tổ chức được quá trình dạy học khoa học, đưa người học tham gia thực sự vào quá trình này, tự khai thác và tiếp nhận tri thức dưới sự hướng dẫn của người dạy. TBDH phải đủ và phù hợp mới triển khai được các phương pháp dạy học một cách hiệu quả. Như vậy, CSVC và TBDH là bộ phận của nội dung và phương pháp, chúng có thể vừa là phương tiện để nhận thức, vừa là đối tượng chứa nội dung cần nhận thức. + CSVC và TBDH là điều kiện về việc đảm bảo chất lượng dạy và học: Xuất phát từ đặc trưng tư duy hình ảnh, tư duy cụ thể của con người, trong quá trình dạy và học, sự trực quan đóng vai trò quan trọng đối với việc lĩnh hội kiến thức của ngừời học. Không ít nội dung học tập phức tạp cần đến sự hỗ trợ tích cực của phương tiện trực quan mới giải quyết được. Học sinh rất cần trực tiếp làm thực nghiệm, được lắp ráp, thao tác quan sát, nhận xét bằng việc sử dụng các dụng cụ phương tiện cụ thể. Nghĩa là học bằng tất cả các giác quan, huy động mọi tiềm năng để nhận thức. Để học tập khoa học theo phương pháp được khám phá, chứng minh kiến thức, thể hiện tường minh phương pháp nghiên cứu và kĩ năng thì các phương tiện, dụng cụ, phòng thí nghiệm có vai trò và tiềm năng to lớn. Yêu cầu trực quan cao trong việc quan sát, trình diễn vận hành của cơ chế, cấu trúc, vận động, mô hình, mô phỏng: các phương tiện nghe nhìn có ưu thế rõ rệt. Như vậy CSVC và TBDH cho phép: * Thực hiện nguyên tắc trực quan trong Dạy và Học. * Góp phần đảm bảo kiến thức theo những đặc trưng cơ bản : Tính chính xác, khoa học, tính tổng quát, tính hệ thống, tính chuyển hoá, tính thực tiễn, tính bền vững. * Rèn luyện kĩ năng nhiều mặt cho người học. * Phương tiện kĩ thuật dạy học có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tạo khả năng xây dựng hình thành, củng cố, hệ thống hoá, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Đó là những yếu tố cấu thành chất lượng thực của dạy học. 2.1.2. Cơ sở pháp lí của quản lý CSVC-TBDH: Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, coi giáo dục và đào tạo là Quốc sách hàng đầu, trong những năm qua, Nhà nước đã có hệ thống văn bản quy định đầu tư phát triển giáo dục. - Luật giáo dục 2005, chương VII, mục 2 “Đầu tư cho giáo dục”, điều 103 quy định: “Ưu tiên đầu tư tài chính và đất đai xây dựng trường học”; điều 106 quy định: “Ưu đãi về thuế trong xuất bản sách giáo khoa, sản xuất thiết bị dạy học, đồ chơi” - Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo quyết định số:07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) tại điều 19 khoản 1 điểm e có ghi nhiệm vụ và quyền hạn của hiệu trưởng: “Quản lí tài chính, tài sản của nhà trường”. - Chỉ thị 39/2007/CT-BGD&ĐT ngày 31 tháng 7 năm 2007 của Bộ giáo dục & đào tạo : “ Chỉ thị về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục Mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp và các trường, khoa sư phạm năm học 2007-2008” Chỉ thị nêu rõ 9 nhiệm vụ trọng tâm trong đó có nhiệm vụ 6 về : “ Củng cố và tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, phát triển mạng lưới trường, lớp học, phòng học bộ môn, nhà công vụ cho giáo viên, thu hút các nguồn lực cho xây dựng CSVC, trường, lớp học, thiết bị giáo dục bằng những chính sách và quy hoạch rõ ràng”. Bộ Giáo dục chỉ thị: “ Tiến hành rà soát, xây dựng và thực hiện các chuẩn về CSVC trường học, TBDH cho các trường Mẫu giáo, Mầm non, Tiểu học, THCS và THPT; đẩy mạnh phong trào tự làm đồ dùng dạy học. Hoàn thiện và trình Chính phủ phê duyệt đề án học phí mới. Đề xuất để Chính phủ ban hành chính sách về đất đai cho phát triển giáo dục, chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng các trường ngoài công lập, trường PTDT bán trú ở vùng dân tộc” Như vậy, vấn đề CSVC và TBDH, quản lý CSVC và TBDH được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và chỉ đạo có hệ thống, khoa học nhằm đáp ứng đổi mới nội dung, phương pháp, không ngừng nâng cao chất lượng dạy học trong giai đoạn hiện nay. 2.1.3. Cơ sở thực tiễn: Nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập, muốn hội nhập thành công, thì yếu tố con người – sản phẩm của nền giáo dục – đào tạo đóng vai trò quyết định. Nhận thức rõ vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự nghiệp phát triển của đất nước, Đảng ta đã khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng. toàn dân. Để đổi mới cơ bản và toàn diện nền giáo dục, thì việc đổi mới công tác quản lý CSVC – TBDH là tất yếu, coi đây là sự đổi mới về điều kiện để đáp ứng yều cầu đổi mới toàn bộ nền giáo dục theo hướng tiên tiến – hiện đại. Mặc dầu những năm gần đây Đảng, nhà nước và sự chung sức của toàn xã hội để xây dựng CSVC và TBDH cho các nhà trường; Tuy nhiên so với nhu cầu thực tế thì CSVC – TBDH còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa đảm bảo yêu cầu, các thiết bị dạy học hiện đại đòi hỏi nguồn kinh phí lớn còn thiếu nhiều hoặc nhiều trường còn chưa có Bên cạnh đó công tác quản lý – sử dụng CSVC – TBDH của rất nhiều nhà trường chưa thật hiệu quả. Những khó khăn, bất cập đó rõ ràng là ảnh hưởng lớn đến mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học, ảnh hưởng đến tiến trình công cuộc đổi mới nền giáo dục nước ta hiện nay. Việc quản lý, khai thác, sử dụng, bảo quản CSVC –TBDH có hiệu quả sẽ góp phần từng bước nâng cao chất lượng dạy hoc, giáo dục, là điều kiện đảm bảo cho thành công của mục tiêu đổi mới giáo dục. Đây chính là cơ sở thực tiễn để tìm ra những giải pháp quản lý, sử dụng CSVC – TBDH thực sự có hiệu quả đúng với vai trò và chức năng của nó, đáp ứng quá trình đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước. 2.2 NHẬN THỨC VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CSVC – TBDH Ở TRƯỜNG THPT. + Khái niệm: Quản lí CSVC và TBDH là tác động có mục đích của người quản lí nhằm xây dựng, phát triển và sử dụng có hiệu quả hệ thống CSVC và TBDH phục vụ đắc lực cho công tác giáo dục và đào tạo. CSVC và TBDH chỉ phát huy tác dụng tốt trong việc giáo dục - đào tạo khi được quản lí tốt. Do vậy đi đôi với việc đầu tư trang thiết bị, điều quan trọng hơn là phải chú trọng quản lý CSVC - TBDH trong nhà trường, do CSVC và TBDH là một lĩnh vực mang đặc tính kinh tế - giáo dục vừa mang đặc tính khoa học - giáo dục nên việc quản lí một mặt phải tuân thủ các yêu cầu chung về quản lí kinh tế, khoa học, mặt khác, cần tuân theo các yêu cầu quản lí chuyên ngành giáo dục. Như vậy, Quản lí CSVC - TBDH là một trong những công việc của người cán bộ quản lí, là đối tượng quản lý trong nhà trường. + Yêu cầu của việc quản lí CSVC - TBDH: Người quản lí cần nắm vững: Cơ sở lí luận và thực tiễn về lĩnh vực quản lí. Các chức năng và nội dung quản lí, biết phân lập và phân phối các nội dung quản lí ( trường học, sách - thư viện, TBDH ). Hiểu rõ đòi hỏi của chương trình giáo dục và những điều kiện CSVC - TBDH để thực hiện chương trình. Có ý tưởng đổi mới và thực hiện ý tưởng bằng một kế hoạch khả thi. Biết huy động mọi tiềm năng có thể của tập thể sư phạm và cộng đồng cho công việc. Có biện pháp tập trung mọi tiềm năng vật chất vào một hướng thống nhất, đảm bảo CSVC và TBDH để nâng cao chất lượng giáo dục. + Nguyên tắc quản lí CSVC - TBDH: Trang bị đầy đủ và đồng bộ các CSVC - TBDH. Bố trí hợp lí CSVC - TBDH trong khu trường, trong lớp học, trong phòng thực hành, thí nghiệm, phòng bộ môn.v.v. Tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động giáo dục. Tổ chức bảo quản trường sở và các phương tiện vật chất, kĩ thuật của nhà trường. + Nội dung cơ bản của quản lí CSVC - TBDH: Xây dựng và bổ sung thường xuyên để hoàn thành một hệ thống hoàn chỉnh CSVC và TBDH (trường sở, sách, thư viện và TBDH). Duy trì, bảo quản CSVC và TBDH; bảo quản theo chế độ quả lý tài sản nhà nước, bảo quản theo chế độ đối với dụng cụ, vật tư khoa học kí thuật. Sử dụng CSVC và TBDH: Để sử dụng tốt phải giải quyết một số vấn đề về mặt quản lí như đầu tư trang bị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng, khai thác, nâng cao trình độ nghiệp vụ, kĩ thuật và kĩ năng cho giáo viên, thực hiện nghiêm túc các qui định về chuyên môn . v. v. + Nội dung cụ thể của việc quản lí CSVC - TBDH Quản lí trường học: Qui mô trường lớp; diện tích mặt bằng; mẫu thiết kế; khuôn viên trường; các khối công trình; phòng học; trang bị phòng học; phòng thí nghiệm và phòng bộ môn. Quản lí thư viện trường học:Tổ chức thư viện; lựa chọn sách cho thư viện; phát huy hiệu quả sử dụng của thư viện. Quản lí TBDH: Quản lý công tác tiếp nhận, bảo quản và sử dụng có hiệu quả các TBDH. 2.3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG CSVC – TBDH Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY. Trong chiến lược phát triển nhà trường, để xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, một người trực tiếp phụ trách công tác quản lý CSVC – TBDH, tôi được nhà trường tạo điều kiện đi học tập, tham khảo, học hỏi kinh nghiệm nhiều trường bạn trong tỉnh và cả ngoài tỉnh về công tác quản lý, sử dụng CSVC – TBDH, và qua đó tôi đã thấy rõ được thực trạng đa chiều, muôn màu, có cả điểm mạnh và cả điểm yếu của các trường THPT, qua thực tế tôi thấy việc quản lý, sử dụng CSVC – TBDH ở trường tôi và nhiều trường bạn trong tỉnh nổi lên một số vấn đề sau: 2.3.1 Một số kết quả đã đạt được: * Về biên chế: Các nhà trường phần lớn đã có biên chế cán bộ thư viện và cán bộ chuyên trách phòng TBDH, nhờ vậy công tác bảo quản TBDH mang tính khoa học hơn. * Về công tác quản lý cơ sở vật chất và thiết bị dạy học: - Xây dựng và bổ sung thường xuyên CSVC - TBDH: Hàng năm các nhà truờng đều có kế hoạch xây dựng, sửa chữa mua sắm bổ sung CSVC - TBDH, làm tăng thêm số lượng TBDH, CSVC tiếp tục được củng cố. - Bảo quản, sử dụng CSVC - TBDH : Công tác quản lí CSVC - TBDH ở trường THPT trong những năm gần đây đã từng bước được quan tâm. Một số nhà trường đã triển khai cho cán bộ chuyên trách thiết lập đủ hệ thống hồ sơ và sổ sách quản lý: Sổ tài sản gốc, sổ nhập-xuất, sổ theo dõi sử dụng sách, thiết bị cho mượn, sổ theo dõi việc bảo dưỡng, sửa chữa . . . Một bộ phận giáo viên đã có nhận thức đúng đắn, có ý thức tự giác, tích cực sử dụng TBDH đã thực sự nâng cao được chất lượng tiết học, cải thiện được phương pháp theo hướng dạy học tích cực, thu hút học sinh và kết quả nhận thức của học sinh tiến bộ rõ rệt. 2.3.2 Một số tồn tại trong công tác quản lí CSVC - TBDH tại trường THPT * CSVC và TBDH chưa đảm bảo cho công tác dạy và học: Những trường có truyền thống lâu đời thì CSVC đã lạc hậu, xuống cấp thiếu vốn đầu tư chưa thể xây lại theo chuẩn mới, các trường ở vùng khó khăn thì càng thiếu thốn hơn. Nhiều nhà trường chưa có phòng thực hành, thí nghiệm, phòng học bộ môn để khai thác tốt nhất các TBDH hiện có. Một số thiết bị chưa đồng bộ, chất lượng không cao, nhiều thiết bị chưa phù hợp với nội dung bài học. *Nguyên nhân: Điều kiện kinh tế xã hội địa phương còn khó khăn, kinh phí đầu tư cho CSVC và TBDH chưa thỏa đáng. Các trường chưa thực sự được tự chủ trong việc lựa chọn nhà thầu cung cấp thiết bị, khi thiết bị đưa về ồ ạt việc nghiệm thu, kiểm định chất lượng không kịp thời, mặt khác năng lực, trình độ hiểu biết của cán bộ giáo viện về một số loại thiết bị còn hạn chế. Do đó rất nhiều thiết bị không sử dụng được hoặc sử dụng không có hiệu quả. * Công các chỉ đạo quản lí, sử dụng, bảo quản CSVC và TBDH còn hạn chế nên việc sử dụng thiết bị chưa đem lại hiệu quả cao: Số trường chưa có hoặc có phòng chứa thiết bị bảo quản chưa đạt chuẩn, chỉ mang tính chất tạm thời, do đó TBDH chưa được bảo quản tốt nên mau hỏng, mất mát, mối mọt, han rỉ. . Còn nhiều giáo viên chưa chú trọng sử dụng TBDH, trong quá trình giảng dạy số tiết dạy chay nhiều hơn là khai thác kiến thức từ TBDH. Nhiều người quản lý chưa có biện pháp hữu hiệu chỉ đạo các tổ chuyên môn thực hiện hướng dẫn kĩ năng sử dụng TBDH cho giáo viên. Do đó giáo viên sử dụng TBDH còn rất lúng túng, thiếu khoa học, hiệu quả dạy học không cao. Trình độ tin học và đặc biệt là ngoại ngữ của đa số giáo viên còn hạn chế nên số TBDH hiện đại sử dụng ít có hiệu quả. Tâm lí ngại sử dụng TBDH của giáo viên còn khá phổ biến. Phong trào tự làm đố dùng dạy học hầu như đã đi dần vào dĩ vãng. *Nguyên nhân Do nhận thức của một bộ phận giáo viên về vị trí, vai trò của TBDH trong công tác giáo dục chưa đúng mức. Các TBDH mới được cấp về taì liệu hướng dẫn sử dụng
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_hieu_qua_su_dung_csvc_tb.doc