SKKN Một số giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay, nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 10E7 trường THPT Triệu Sơn 3
Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2015 đã xác điṇh rõ trong Điều 27 về mục tiêu Giáo dục phổ thông là: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của người công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy với mục tiêu đó thì nhiệm vụ giáo dục đạo đức học sinh đóng vai trò quan trọng, vừa phải phù hợp với các qui định và chuẩn mực của xã hội, đồng thời phải phù hợp với những qui định của nhà trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Nếu làm tốt, làm đúng quy trình giáo dục đạo đức phù hợp với qui luật nhận thức sẽ giúp cho học sinh tích cực điều chỉnh hành vi, ý thức của mình theo chuẩn đạo đức. Đối với học sinh THPT tâm sinh lý lứa tuổi có nhiều thay đổi, các em có nhu cầu được hiểu biết, tìm tòi, khám phá, thích giao lưu tìm hiểu, thích thể hiện mình là người lớn.; Trong khi đó kiến thức, kỹ năng sống và hiểu biết về pháp luật còn rất hạn chế, vì vậy các em chưa hoàn toàn làm chủ được hành vi của mình. Cùng với tác động tiêu cực từ cơ chế thị trường nên một bộ phận học sinh THPT suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả và thiếu trách nhiệm. Một thực trạng đã diễn ra ở các nhà trường THPT thậm chí cả nhà trường Trung học cơ sở là hiện tượng học sinh mang thai ngoài ý muốn. Do vậy buộc các em đó phải phá thai, sinh con hoặc kết hôn ở tuổi vị thành niên, làm mẹ, làm vợ ở tuối còn quá trẻ. Điều đó làm mất đi vẻ đẹp văn hóa học đường đi ngược lại thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Hơn nữa, điều đó còn vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật và làm mai một đi thế hệ trẻ của đất nước, để lại hậu quả nặng nề cho bản thân các em và hệ lụy cho xã hội.
1. Mở đầu Lý do chọn đề tài Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2015 đã xác điṇh rõ trong Điều 27 về mục tiêu Giáo dục phổ thông là: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của người công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy với mục tiêu đó thì nhiệm vụ giáo dục đạo đức học sinh đóng vai trò quan trọng, vừa phải phù hợp với các qui định và chuẩn mực của xã hội, đồng thời phải phù hợp với những qui định của nhà trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Nếu làm tốt, làm đúng quy trình giáo dục đạo đức phù hợp với qui luật nhận thức sẽ giúp cho học sinh tích cực điều chỉnh hành vi, ý thức của mình theo chuẩn đạo đức. Đối với học sinh THPT tâm sinh lý lứa tuổi có nhiều thay đổi, các em có nhu cầu được hiểu biết, tìm tòi, khám phá, thích giao lưu tìm hiểu, thích thể hiện mình là người lớn...; Trong khi đó kiến thức, kỹ năng sống và hiểu biết về pháp luật còn rất hạn chế, vì vậy các em chưa hoàn toàn làm chủ được hành vi của mình. Cùng với tác động tiêu cực từ cơ chế thị trường nên một bộ phận học sinh THPT suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả và thiếu trách nhiệm. Một thực trạng đã diễn ra ở các nhà trường THPT thậm chí cả nhà trường Trung học cơ sở là hiện tượng học sinh mang thai ngoài ý muốn. Do vậy buộc các em đó phải phá thai, sinh con hoặc kết hôn ở tuổi vị thành niên, làm mẹ, làm vợ ở tuối còn quá trẻ. Điều đó làm mất đi vẻ đẹp văn hóa học đường đi ngược lại thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Hơn nữa, điều đó còn vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật và làm mai một đi thế hệ trẻ của đất nước, để lại hậu quả nặng nề cho bản thân các em và hệ lụy cho xã hội. Trường THPT Triệu Sơn 3 đóng ở vùng bán sơn địa, xa trung tâm văn hóa của huyện, điều kiện kinh tế khó khăn, nên cơ bản các em còn nhiều hạn chế về hiểu biết, nghèo về vốn sống. Bố mẹ các em có những quan điểm lạc hậu, cổ hủ; Sự quan tâm chăm sóc về đời sống tâm lý, tinh thần con cái chưa tốt; Quản lý con cái còn lỏng lẻo; Sự hiểu biết để giáo dục con về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên còn hạn chế. Là một giáo viên làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi luôn nhận thức và đánh giá cao việc rèn luyện kỹ năng sống, giáo dục giới tính sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh, nhằm ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở lứa tuổi học sinh THPT cho lớp chủ nhiệm trong giai đoạn hiện nay là cần thiết hơn bao giờ hết. Cùng với khẩu hiệu của Đoàn thanh niên trường THPT Triệu Sơn 3 “ Rèn đức sáng, luyện tâm trong và xây dựng hoài bão lớn” cùng với cuộc vận động “ Mỗi thầy cô gáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo’’ để tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục toàn diện cho học sinh theo tôi phải bắt đầu từ việc xây dựng chuẩn hành vi đạo đức và tạo ra không gian văn hóa học đường. Từ đó có được thế hệ trẻ vừa hồng vừa chuyên, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệm phát triển Giáo dục và Đào tạo.Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “ Một số giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay, nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 10E7 trường THPT Triệu Sơn 3” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2017-2018. 1.2. Mục đích nghiên cứu Đưa ra giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay để: - Tăng cường giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính và kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm. - Giáo dục các em biết coi trọng giá trị bản thân, giá trị đạo đức, biết xây dựng hoài bão, lý tưởng của mình. Từ đó có được tình bạn, tình yêu lành mạnh trong sáng, giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống, hướng tới xây dựng tương lai. - Tuyên truyền hậu quả của việc quan hệ tình dục ở độ tuổi học sinh THPT. - Tạo ra cuộc tuyên truyền rộng lớn trong nhà trường, gia đình và xã hội về vấn đề sức khỏe sinh sản, tình dục vị thành niên. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Là quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đưa ra một số giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay, nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 10E7 trường THPT Triệu Sơn 3. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí luận; Phương pháp quan sát; Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế; Phương pháp thực nghiệm; Phương pháp thống kê và xử lý số liệu. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến Sinh thời Bác đã dạy “Đạo đức là cái gốc rất quan trọng”, “Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định”, “Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức là người vô dụng”. Do vậy Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo. Đã có quan điểm chỉ đạo “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; Lý luận gắn với thực tiễn; Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Vì vậy mục tiêu giáo dục trong các nhà trường hiện nay là phải tạo ra những thế hệ học trò vừa hồng vừa chuyên, muốn vậy thì công tác giáo dục nhà trường phải chú trọng cả việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Kỹ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả. Hình thành kỹ năng sống cho con em trong lứa tuổi thanh thiếu niên đang là vấn đề ngày càng được nhiều bậc cha mẹ, các nhà giáo dục và xã hội chú ý đến. Kỹ năng sống cho học sinh theo cách hiểu đơn giản nhất, gần gũi nhất thì đó chính là những kỹ năng học tập, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, kỹ năng làm việc, giúp các em tạo dựng khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với mọi người, với xã hội và khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Người càng có nhiều kỹ năng sống sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; Biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực, hiệu quả hơn; Làm chủ được bản thân, chắc chắn rằng họ sẽ thành công nhiều hơn trong cuộc sống. Ngược lại, người thiếu kỹ năng sống thường dễ bị vấp ngã, ngày nay xã hội càng phát triển thì kéo theo mặt trái của nó, điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến giới trẻ. Trong xã hội tiên tiến, học sinh ngày nay càng thông minh nhạy bén, dễ tiếp thu cái mới, cái đẹp nhưng cũng dễ nhiễm cái xấu. Một thực trạng đang diễn ra trong các trường THPT là do thiếu kiến thức và kỹ năng về sức khỏe sinh sản, tình dục hoặc do lối sống “ lệch chuẩn” nên một bộ phận học sinh do yêu đương quá giới hạn dẫn tới việc quan hệ tình dục, mang thai, nạo phá thai và kết hôn khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường . Theo TS Nguyễn Tùng Lâm, Chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Hà Nội.Theo ông, các nhà trường hiện nay công tác giáo dục giới tính trong nhà trường chưa hiệu quả, cung cấp cho học sinh kiến thức về quan hệ tình dục còn hạn chế. Các trường cũng có chuyên đề về giới tính và tình yêu tuổi học trò, nhưng nặng về lý thuyết. Ông thể hiện quan điểm của mình về vấn đề này “ Đừng lảng tránh, hãy đối mặt”. Ông cho rằng: “Chúng ta phải đối mặt với vấn đề yêu và quan hệ tình dục ở học sinh”. “Ngành giáo dục và các chuyên gia cần nghiên cứu để đưa vấn đề này vào chương trình giáo dục chính thống, cách làm phải gần gũi để học sinh ngấm hơn. Thầy cô phải lắng nghe và đồng hành với học sinh mới mang lại hiệu quả. Việc giáo dục sức khỏe giới tính đang dần trở nên cấp bách của nhiều cấp, ngành trong xã hội nói chung và của ngành giáo dục nói riêng”. Vậy theo tôi việc cần làm ngay bây giờ giáo dục cho các em những kiến thức, kỹ năng về giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên, cụ thể như cách từ chối tình dục, cách giữ gìn thân thể, cách thoát hiểm, tình dục an toàn và có trách nhiệm với hành vi tình dục thay vì để các em hành động theo bản năng. Hay quan điểm “ vẽ đường cho hươu chạy đúng đường, còn hơn đưa hươu vào bụi rậm”. 2.2. Thực trạng tình trạng quan hệ tình dục của học sinh THPT hiện nay khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, nguyên nhân và hậu quả. 2.2.1. Thực trạng tình trạng quan hệ tình dục của học sinh THPT hiện nay. Những con số và kết quả sau đây không làm ít người khỏi giật mình: - Theo tổ chức y tế thế giới WHO lứa tuổi vị thành niên chiếm tỉ lệ khá lớn trong dân số thế giới, có tới 500 triệu vị thành niên tuổi từ 15 đến 19 trong số đó có phần không nhỏ đã quan hệ tình dục. - Ông Trần Thành Nam - Tiến sĩ Tâm lý học trẻ em và vị thành niên - ĐHQGHN cho biết, theo những số liệu nghiên cứu của ông và đồng nghiệp, chọn mẫu tại một số trường ở nội và ngoại thành Hà Nội, thì đến hết lớp 9 có khoảng 10% học sinh đã từng quan hệ tình dục; Tính đến hết lớp 12 thì con số là 39%. Cũng theo ông Nam, khoảng 10% học sinh THPT báo cáo đã từng quan hệ với từ 3 người trở lên. Đáng chú ý, các em không chỉ quan hệ tình dục một cách đơn thuần nhất mà đi kèm với đó là có tới 15% học sinh sử dụng các chất kích thích như rượu, các dạng ma túy tổng hợp... trong khi quan hệ. Nguồn: VTC14. - Giáo sư Hoài Đức lo ngại tình trạng phá thai ở người trẻ ngày càng gia tăng. Nghiên cứu của bà và các đồng nghiệp từng chỉ ra tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên Việt Nam cao hơn nhiều nước trong khu vực và đứng thứ 5 trên thế giới. Hàng năm, khoảng 300.000 nữ giới từ 12-19 tuổi phá thai, 20-30% ca phá thai là phụ nữ chưa kết hôn, 60-70% là học sinh, sinh viên. - Theo thống kê của vụ sức khỏe Bà mẹ - trẻ em, Bộ y tế năm 2016, tính riêng trong hệ thống bệnh viện công lập thuộc 63 tỉnh thành phố đã có đến 265.536 ca nạo phá thai, trong đó ở độ tuổi vị thành niên, thanh niên chiếm xấp xỉ 4600 ca. - Chuyên gia tổng cục Cục dân số KHHGĐ, những số liệu về tỉ lệ mang thai, phá thai và sinh con sớm ở tuôi vị thành niên cho thấy, xu hướng về mang thai, phái thai và sinh con sớm ở tuổi vị thành niên gia tăng đáng kể. Điều này có nhiều tác động đến tỉ xuất chết ở trẻ em dưới một tuổi, đến tỷ số tử vong bà mẹ và chính tương lai của vị thành niên đó. Tỷ lệ sinh con ở tuổi vị thành niên tại Việt Nam năm 2011 là 46/1000. Tỷ lệ này cao hơn so với nhiều nước ở Châu Á. Trong khi đó, trong những năm vừa qua, có một thực trạng đã diễn ra ở trường THPT Triệu Sơn 3 đó là một số năm trước đây và liên tục trong các năm học 2013-2014, 2014-2015, 2015-2016, 2016-2017, 2017-2018. Trong nhà trường đều có một số em học sinh nữ do yêu đương và đi quá giới hạn nên đã quan hệ tình dục để xảy ra có thai ngoài ý muốn. Vì vậy đã phải nghỉ học giữa chừng để kết hôn. Có một trường hợp đáng tiếc em Nguyễn Thị N là học sinh lớp 10 có học lực khá nhất của lớp, em rất gương mẫu trong công việc tập thể. Đầu học kỳ II lớp 10 năm hoc 2017-2018 em đã phải nghĩ học để cưới chồng ngày 02/3/2017. Hay trường hợp em Trần Thị K học sinh khóa 2014-2017 là học sinh có ý thức về học tập. Bất ngờ biết được em có thai ngoài ý muốn, sau khi phát hiện ra thì GVCN và giáo viên bộ môn tư vấn cho em hướng giải quyết, nhưng do quan điểm gia đình thì em vẫn để sinh con và kết hôn, đến ngày thi tốt nghiệp thì em mang thai đến tháng thứ 7. Còn có trường hợp em Trần Thị Dung học khóa 2014-2017 do yêu đương em đã không làm chủ được bản thân, em đã mang thai ngoài ý muốn. Do xấu hổ với bạn bè thầy cô nên em đã bỏ học khi chỉ cách kỳ thi THPT một tháng, thầy cô giáo bộ môn và cô chủ nhiệm biết chuyện rất giận nhưng cũng rất thương các em. Đó là một vấn đề thật đáng tiếc đối với bản thân các em, với gia đình, với nhà trường và với xã hội chúng ta hiện nay. Ngày nay tình trạng sinh viên sống thử không còn mới mẻ, hình ảnh những nam nữ mặc áo đồng phục đi vào nhà nghỉ không còn xa lạ. Lớp 10E7 có 42 học sinh thì tất cả các em đều là con của các gia đình làm nông nghiệp, có 9 em là con em dân tộc, có 11 em thuộc vùng 135, có nhiều em ở cách xa trường phải ở trọ. Là lớp cơ bản có điểm vào lớp 10 rất thấp, vậy nên nhận thức của các em còn nhiều hạn chế. Bản thân bố mẹ còn nhiều hạn chế trong một trong những hạn chế đó là thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, tình dục, nhiều bố mẹ tâm lý ngại ngùng, e dè, xấu hổ khi nói với con cái về tình yêu, tình dục. Quan điểm của nhiều gia đình là lớn lên tự tìm hiểu, sẽ biết và không để ý đến giáo dục sức khỏe sinh sản, tình dục cho các con và coi việc giáo dục đó như “ Vẽ đường cho hương chạy” và điều đó càng làm cho con trẻ tò mò hơn. Học sinh lớp 10, giai đoạn này được hiểu một cách đơn giản là giai đoạn “sau trẻ con và trước người lớn” của mỗi cá thể, được gọi là “thời kỳ vị thành niên”. Đây là lứa tuổi diễn ra rất nhiều thay đổi về tâm sinh lý lứa tuổi dậy thì. Là học sinh lớp 10 nên bản thân các em còn non nớt. Kỹ năng sống còn ít ỏi, nhiều điều mới lạ ở ngôi trường mới, mọi thứ xung quanh còn lạ lẫm và mới mẻ. Nên những tác động tiêu cực rất dễ đến với các em. Để đánh giá được hiệu quả của đề tài, nên tôi chọn hai lớp mà học sinh có độ tuổi như nhau, sự nhận thức tương đối đồng đều. Ngay đầu năm học tôi tiến hành điều tra ở cả 2 lớp và giành 10 phút trong tiết sinh hoạt cuối tuần để điều tra thực trạng (Nội dung phiếu điều tra được trình bày ở phụ lục 1). Lưu ý: Phiếu điều tra không yêu cầu ghi tên người được điều tra để đảm bảo bí mật và đảm bảo tính khách quan. Kết quả thu được như sau: Bảng 1 Lớp Sĩ số Em có đồng ý với quan điểm “ Tình yêu của giới trẻ hiện nay phải đồng hành cùng với tình dục” Đồng ý Không đồng ý SL % SL % 10D6(2016-2017) 41 11 26,8 30 73,2 10E7(2017-2018) 42 13 31 29 69 Bảng 2 Lớp SS Mức độ hiểu về sức khỏe sinh sản vị thành niên Hiểu đúng Hiểu gần đúng Hiểu sơ sài Không hiểu gì SL % SL % SL % SL % 10D6(2016-2017) 41 0 0 5 12,2 35 85,4 1 2,4 10E7(2017-2018) 42 0 0 4 9,5 36 85,7 2 4,8 Bảng 3 Lớp SS Hạnh kiểm Tốt Khá TB Yếu-Kém SL % SL % SL % SL % 10D6(2016-2017) 41 32 78,06 8 19,5 1 2,44 0 0 10B6(2017-2018) 42 34 80,95 7 16,67 1 2,38 0 0 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng 2.2.2.1. Thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản và tình dục vị thành niên. Hiện nay trong nhà trường do chương trình học chính khóa quá nặng nên giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên còn nhiều hạn chế, chỉ dừng lại mang tính chất phong trào. Chưa chú trọng đúng mức mà chỉ lồng ghép vào các môn học. Đối với gia đình thì nhiều gia đình còn né tránh, không quan tâm, không coi trọng việc giáo dục giới tính cho con em mình. Vậy điều đó càng gây tò mò cho các em. Mặt khác do thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, nhiều bạn cho rằng quan hệ một lần thì không thể có thai, hoặc sau khi quan hệ thì thụt rửa âm đạo là xong, nạo phá thai là chuyện bình thường, nhiều em cho đó chỉ là thủ thuật nhỏ và các bạn không hề quan tâm đến hậu quả sau này. Vậy nguyên nhân đó dẫn đến tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT như hiện nay. 2.2.2.2. Thiếu kỹ năng sống. Ngoài thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản và tình dục, các bạn còn thiếu kỹ năng sống. Như chưa có những kỹ năng từ chối trước những đòi hỏi của bạn tình, chưa biết giữ gìn cơ thể tránh đụng chạm vào các vùng kín, chưa biết cách thoát hiểm, chưa biết cách xử lý tình huống, chưa phân biệt rõ khái niệm tình yêu và tình dục, “Ảo tưởng sức mạnh tình yêu”. Hơn nữa nhiều em có nguy cơ bị dụ dỗ, lôi kéo hoặc bị ép buộc quan hệ tình dục 2.2.2.3. Do nhu cầu giới tính của tuổi dậy thì. Tuổi dậy thì bắt đầu từ giai đoạn thiếu niên và kết thúc vào giai đoạn đầu tuổi thanh niên. Đầu tiên, các cơ quan sinh dục bắt đầu hoạt động báo hiệu thời kỳ trưởng thành về mặt tình dục. Các tuyến sinh dục trong thời kỳ này hoạt động tích cực và tính trội của giới tính xuất hiện rõ ràng theo hiệu ứng hoạt động của hoocmon cũng được phát triển. Song song đó, chức năng sinh sản cũng được hình thành để duy trì nòi giống. Nhu cầu tình dục cũng bắt đầu xuất hiện. Hơn nữa hiện nay do trẻ em dậy thì sớm hơn so với trước do tác động của môi trường nên các cơ quan sinh dục phát triển rất nhanh. 2.2.2.4. Do tác động tiêu cực từ mặt trái của xã hội. Do phim ảnh hiện nay quá lạm dụng các hình ảnh nhạy cảm. Trên mạng internet tràn lan văn hóa phẩm đồi trụy. Điện thoại thông minh để truy cập mạng thì quá phổ biến. Những kích thích mạnh mẽ như xem phim, đọc truyện khiêu dâm, kích dục làm cho khả năng tình dục dễ bị hưng phấn, kích động khi đó nghĩ đến nhu cầu quan hệ tình dục của bản thân. Bên cạnh đó hệ thống nhà nghỉ thì tràn lan, sự quản lý của các cấp quản lý đối với các nhà nghỉ rất lỏng lẽo. Nếu thiếu ý thức làm chủ bản thân, không tự kiềm chế thì các em có thể vượt qua giới hạn và dẫn tới quan hệ tình dục là dễ dàng. 2.2.2.5. Do thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình. - Sống trong gia đình lục đục, không hạnh phúc, lối sống thiếu hòa khí, cha mẹ thờ ơ, không quan tâm đến con cái. Điều đó sẽ làm cho các bạn “cảm thấy cô đơn” nên dễ dẫn đến yêu đương sớm . - Nhiều gia đình không quản lý con cái, dễ dãi, không quan tâm đến những biến đổi tâm sinh lý ở con. Thậm trí con mang bầu quá to rồi cha mẹ mới phát hiện ra. Nhiều gia đình nhầm tưởng giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe sinh sản là “ vẽ đường cho hươu chạy”. 2.2.2.6. Do lối sống buông thả thiếu giáo dục, “lệch chuẩn” của một bộ phận học sinh THPT. Nhiều học sinh nữ ăn mặc hở hang, phản cảm thiếu tế nhị. Một số em hiện nay có cách nghĩ thoáng về quan hệ tình dục, coi quan hệ tình dục là quyền của con người, cho rằng yêu là phải “quan hệ”, thích là quan hệ và “sống thử”, như vậy mới là thanh niên trong thời hiện đại. Có quan hệ tình dục thì mới khẳng định được tình yêu trọn vẹn với người mình yêu. Nhiều bạn gái không còn ý thức giữ gìn trinh tiết, phẩm giá bản thân. Nhiều em ở tuổi THPT đã có bề dày kinh nghiệm về tình trường. Thậm trí nhiều bạn đã tìm đến một số loại thuốc để kích dục, tự quay clip sex rồi tự tung lên mạng nhằm khoe “chiến tích”. Đó là những hành vi “lệch chuẩn” đi ngược lại kỷ cương, phép tắc và chuẩn mực đạo đức của nhà trường, gia đình, xã hội. Lối sống đó thể hiện những học sinh thiếu lý tưởng sống, thiếu văn hóa, thiếu nhân cách. Do các hành vi ấy đã làm xấu đi hình ảnh đẹp của người học trò, mai một đi thế hệ trẻ của đất nước, điều đó không những hạn chế khả năng đóng góp của họ vào việc xây dựng và phát triển xã hội mà còn để lại hệ lụy cho xã hội. 2.2.3. Hậu quả của tình trạng quan hệ tình dục của học sinh THPT hiện nay. 2.2.3.1. Ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Nếu quan hệ tình dục trong giai đoạn này: Đối với nữ: Cơ quan sinh dục của các bạn chưa hoàn thiện nên âm hộ và âm đạo rất yếu, bề mặt âm đạo mỏng yếu. Việc quan hệ tình dục sớm cùng với việc thiếu kiến thức thì có thể dẫn tới màng trinh rách nghiêm trọng và tổn thương âm đạo, ra nhiều máu, chức năng tự phòng ngừa của âm đạo bị giảm, do vậy rất dễ: Ung thư cổ tử cung, vô sinh, hiếm muộn, viêm nhiễm phụ khoa và lây nhiễm các bệnh xã hội qua đường tình dục. Vậy nữ là người chịu hậu quả vô cùng nặng nề. Đối với nam: Quan hệ tình dục sớm hoặc thủ dâm nhiều quá ở lứa tuổi THPT cũng là nguyên nhân gây ra vô sinh ở nam giới. Việc quan hệ tình dục sớm khiến các bạn trai dễ mắc chứng rối loạn cương dương, xuất tinh sớm và nguy hiểm là mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục như HIV/AIDS. (Trích từ báo Việt nam net). 2.2.3.2. Ảnh hưởng xấu đến tâm lý bản thân và làm xấu đi văn hóa học đường. Quan hệ tình dục sớm khiến các em lo lắng, thấp thỏm, căng thẳng, hoảng sợ. Sợ bị bạn, bố mẹ và thầy cô phát hiện. Khi mang thai ngoài ý muốn thì khủng hoảng tinh thần, không còn tâm trí để học tập. Không giữ được hòa khí hay tự xa dần với bạn bè, người thân trong gia đình và sợ định kiến của xã hội nên ngày càng thu mình vào bóng tối, kết quả học tập giảm sút, hay nghĩ đến việc bỏ học giữa chừng thậm chí nghĩ đến việc bỏ nhà đi.Thực trạng trên làm mất đi vẻ đẹp học đường vốn có của nó, mất đi sự trong sáng, ngây thơ, hồn nh
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_ngan_ngua_tinh_trang_quan_he_tinh_duc.doc
- bia skkn.docx
- CV34-Z-Danh muc de tai SKKN da duoc xep giai cua tac gia.doc
- MỤC LỤC.docx
- PHỤ LỤC.docx