SKKN Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt ở trường THPT Như Thanh
Giáo dục là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật, vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Chính vì thế nên sự nghiệp giáo đào tạo từ trước đến nay luôn được toàn đảng, toàn dân quan tâm.
Vấn đề đặt ra từ trước tới nay là nhà trường có nhiệm vụ giáo dục học sinh đã và đang trở thành con người có ích cho xã hội do đó việc phát triển về nhân cách, hay cụ thể hơn là đạo đức, hạnh kiểm học sinh phải được hình thành trên cơ sở tự rèn luyện của bản thân học sinh ngay trên ghế nhà trường. Đó là ý thức học tập nghiêm túc, chấp hành đúng nội quy lớp học, trường học, chấp hành đúng pháp luật đây là yêu cầu tất yếu đối với các em học sinh.
Nhưng thực trạng hiện nay, ở hầu hết các trường đều xuất hiện một bộ phận học sinh không chấp hành tốt nội quy nhà trường, học tập không nghiêm túc làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền nếp chung của nhà trường và chất lượng học tập giảm sút. Nhất là gần đây trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt nhất là học sinh nữ. Số học sinh cá biệt này tuy không nhiều nhưng lại là ''lực cản'' rất lớn tác động đến những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải trong mỗi lớp học, mỗi trường học.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT NHƯ THANH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH NỮ CÁ BIỆT Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH Người thực hiện: Bùi Thị Thường Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Như Thanh SKKN thuộc lĩnh vực (môn): GVCN và công tác giám thị THANH HÓA, NĂM 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài. Giáo dục là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật, vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Chính vì thế nên sự nghiệp giáo đào tạo từ trước đến nay luôn được toàn đảng, toàn dân quan tâm. Vấn đề đặt ra từ trước tới nay là nhà trường có nhiệm vụ giáo dục học sinh đã và đang trở thành con người có ích cho xã hội do đó việc phát triển về nhân cách, hay cụ thể hơn là đạo đức, hạnh kiểm học sinh phải được hình thành trên cơ sở tự rèn luyện của bản thân học sinh ngay trên ghế nhà trường. Đó là ý thức học tập nghiêm túc, chấp hành đúng nội quy lớp học, trường học, chấp hành đúng pháp luật đây là yêu cầu tất yếu đối với các em học sinh. Nhưng thực trạng hiện nay, ở hầu hết các trường đều xuất hiện một bộ phận học sinh không chấp hành tốt nội quy nhà trường, học tập không nghiêm túc làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền nếp chung của nhà trường và chất lượng học tập giảm sút. Nhất là gần đây trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt nhất là học sinh nữ. Số học sinh cá biệt này tuy không nhiều nhưng lại là ''lực cản'' rất lớn tác động đến những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải trong mỗi lớp học, mỗi trường học. Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: Làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của nhà trường, của giáo viên chủ nhiệm và những người trực tiếp giảng dạy. Trường THPT Như Thanh là một ngôi trường có phong trào giáo dục học tập nghiêm túc vì đội ngũ giáo viên - công nhân viên yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao. Nhà trường luôn đặt ra yêu cầu đối với mỗi giáo viên cần phải rèn luyện cho các em cả về ''đức'' và ''tài'', nhưng thực tế hiện nay có một bộ phận học sinh chưa xác định đúng động cơ của việc học tập và có sự sa sút về nhân cách, đạo đức của người học sinh. Với bản thân tôi là một giáo viên cũng trăn trở và cố tìm ra biện pháp tối ưu nhằm giáo dục học sinh cá biệt trở thành con ngoan trò giỏi. Tôi chọn đề tài ''Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt ở trường THPT Như Thanh'', đây không chỉ là vấn đề riêng mà còn là vấn đề chung được quan tâm suy nghĩ làm sao để học sinh của mình trở thành những con người có ích cho xã hội. II. Mục đích nghiên cứu. Với việc chọn đề tài ''Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt ở trường THPT Như Thanh'' bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp cho học sinh cá biệt nhất là học sinh nữ có cách suy nghĩ đúng đắn để từng bước thay đổi thái độ của mình trong học tập theo hướng tích cực. Từ đó giúp các em biết tự tôn trọng bản thân và xác định được mục đích của việc học tập nghiêm túc không chỉ phục vụ chính tương lai của bản thân mình và giúp đỡ gia đình, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Bên cạnh đó tôi cũng muốn các em thấy được công lao của các bậc sinh thành nhọc nhằn nuôi con ăn học và sự vất vả của các thầy cô trong việc truyền đạt tri thức và giáo dục hoàn thiện nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh. Bên cạnh việc giáo dục học sinh bài viết còn hướng tới thầy cô giáo, giúp cho các thầy cô thấy rõ hơn về vai trò trách nhiệm của mình đối với nghề nghiệp, đặc biệt là trong sự nghiệp trồng người đang vốn là một nghề thiêng liêng cao quý đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khẳng định: ''Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý". Việc này còn giúp cho một số ít thầy cô chưa thực sự sâu sát với học sinh nhất là học sinh cá biệt để mà xác định nhiệm vụ ''Tất cả vì học sinh thân yêu'' góp phần xây dựng ''Trường học thân thiện, học sinh tích cực'' và giúp học sinh thấy được ''Mỗi ngày đến trường là một ngày vui''. III. Đối tượng nghiên cứu. Học sinh nữ cá biệt trường THPT Như Thanh (2012-2017) IV. Phương pháp nghiên cứu. Giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt là nhiệm vụ luôn đặt ra cho mỗi người giáo viên. Quan trọng nhất là làm cho học sinh hiểu được quan điểm của mình là giáo dục và đưa ra các phương pháp thuyết phục, mềm dẻo linh hoạt dạy dỗ và phương pháp áp dụng sau cùng là bắt buộc. Chính vì thế tôi sử dụng 5 phương pháp sau: + Phương pháp sư phạm. + Phương pháp thu thập thông tin. + Phương pháp đàm thoại. + Phương pháp khảo sát thống kê + Phương pháp tổng hợp phân tích NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. Theo tiếng Hán thì tiếng ''cá'' có nghĩa là cá nhân, cá thể, chỉ bản thân một ai đó. Còn ''biệt'' mang nghĩa là riêng, khác với những cái còn lại Vậy có thể nói một cách khoa học, cá biệt là một cá thể có điểm khác so với những cá thể khác. Trường hợp sử dụng cho trường học thì cụm từ ''học sinh cá biệt'' thường được dùng theo nghĩa không tốt, thường là ám chỉ những cô cậu học trò hay quấy phá, có thành tích học tập chưa tốt. Không chịu học hành mà chỉ thích quậy phá trong lớp như: làm trò cười khi giáo viên đang giảng bài, mất tập trung từ đó việc học hành xuống dốc. * Học sinh nữ cá biệt là hiện tượng học sinh nữ có cách ứng xử không phù hợp với đạo đức và chuẩn mực chung của xã hội, đặt biệt là biểu hiện của học sinh trong nhà trường.Hiện tượng này biểu hiện qua các lĩnh vực học tập, vui chơi, giao tiếp, sinh hoạt trong lớp, trong trường và ngoài xã hội . * Ý nghĩa của việc giáo dục học sinh nữ cá biệt : - Giáo dục học sinh nữ cá biệt là thái độ tình cảm đúng đắn của mỗi người giáo viên với học sinh cá biệt đó. - Ngăn chặn những ảnh hưởng (nếu có) để tách khỏi những học sinh hư hỏng, những tệ nạn xã hội, phát huy lối sống lành mạnh tích cực. - Phát hiện những ưu điểm tiềm ẩn trong học sinh cá biệt đó. - Bằng lý luận thực tiễn, cung cấp cho học sinh cá biệt những cách thức, biện pháp để học tập, rèn luyện có kết quả tốt. - Kết hợp giữa dạy học và giáo dục. II. Cơ sở thực tiễn 1. Thực trạng về học sinh nữ cá biệt. Trong điều kiện xã hội phát triển, giao lưu kinh tế - xã hội và văn hóa rộng rãi như hiện nay là điều đáng mừng nhưng bên cạnh những mặt tốt cũng kéo theo nhiều mặt xấu, nó góp phần làm gia tăng, phát triển các tệ nạn xã hội mà từng giờ từng ngày ảnh hưởng đến nền giáo dục của xã hội nói chung và tác động đến học sinh nói riêng . Trường THPT Như Thanh là huyện miền núi nằm tại trung tâm của thị trấn Bến Sung. Hơn nửa thế kỷ được thành lập nhà trường cũng có nhiều bề dày lịch sử, thành tích của nhà trường cũng góp phần tích cực vào sự phát triển của ngành giáo dục Thanh Hóa nói riêng và ngành giáo dục Việt Nam nói chung. Học sinh của nhà trường bao gồm nhiều dân tộc khác nhau: Mường, Thái, Kinh, Thổ Điều kiện kinh tế của nhiều hộ gia đình còn khó khăn, đường xá đi lại của nhiều em học sinh không được thuận lợi cho nên có những em phải trọ lại. Bên cạnh đó chất lượng thi vào lớp 10 của nhà trường nhiều em điểm còn yếu so với nhiều huyện miền xuôi. Các em học sinh ở lứa tuổi này nhận thức đang còn nông cạn mà cái tôi của các em lại được biểu hiện rất rõ, cũng ở giai đoạn này các em đang tự hoàn thiện mình về nhân cách, lẫn quan niệm sống. Chính vì thế số lượng học sinh cá biệt ngày càng gia tăng trong đó không ít học sinh cá biệt là nữ. Biểu hiện của những em học sinh nữ cá biệt có sự bất thường về tính cách, tâm lý không ổn định, không có động cơ học tập, thích thì học, không thích thì đùa giỡn, quấy phá, lười biếng, quay cóp trong học tập Những học sinh này còn lừa dối cha mẹ, thầy cô, dọa nạt bạn bè thậm chí còn đánh nhau trong và ngoài nhà trường; cách nói năng, ăn mặc, đầu tóc gây sự chú ý. Kết quả học tập thất thường, sút kém dẫn đến chán học. Chính từ thực trạng nêu trên học sinh thời nay đang cần nhiều sự quan tâm của xã hội nên tôi thấy việc giáo dục đạo đức học sinh nữ cá biệt có một ý nghĩa rất to lớn đối với xã hội; thành công trong việc giáo dục sẽ góp phần quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội và cung cấp cho xã hội những công dân tốt. Đối với gia đình, với cha mẹ học sinh thì việc giáo dục đạo đức học sinh nữ cá biệt sẽ đem lại hạnh phúc lớn lao cho họ, giúp họ tránh được nổi bất hạnh lớn nhất đó là con cái hư hỏng. Đối với nhà trường đó là điều kiện để đảm bảo cho trường, lớp ổn định, trật tự, nề nếp tốt để các em trong nhà trường sẽ cùng nhau tu dưỡng và học tập đạt kết quả tốt hơn để góp phần khẳng định chất lượng giáo dục của nhà trường. 2. Phân loại học sinh nữ cá biệt. Dựa trên quá trình tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn chúng ta dễ dàng phân loại học sinh cá biệt theo các nhóm khác nhau. Nhóm 1: Học sinh cá biệt do vi phạm nội quy của nhà trường, của lớp, mất trật tự trong giờ học, đi học muộn, cách ăn mặc, đầu tóc nhố nhăng Nhóm 2: Học sinh cá biệt do ham chơi, đua đòi, yêu đương, giao du với bạn bè, tiêu xài các khoản tiền bố mẹ cho để đóng góp, sẵn sàng trốn tiết bỏ học, nói dối bố mẹ, thầy cô. Nhóm 3: Học sinh cá biệt do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, vi phạm pháp luật như: Quan hệ bất chính, đánh nhau, trộm cắp, hay nói tục chửi bậy, hổn láo với thầy cô giáo, cha mẹ hoặc với những người lớn tuổi khác Nhóm 4: Học sinh cá biệt do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ Có thể nói những tác hại do học sinh cá biệt gây ra là không hề nhỏ thậm chí là khá nghiêm trọng. Nó làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chung, phong trào thi đua của nhà trường, trật tự an ninh của xã hội, hạnh phúc của gia đình và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, cuộc sống của các em sau này. 3. Nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng của học sinh nữ cá biệt: Có nhiều nguyên nhân. ''Nhân chi sơ, tính bản thiện'' đây là câu nói của Khổng Tử trong Nho giáo. Câu này có ý nghĩa là con người sinh ra bản tính ban đầu vốn thiện và tốt lành, khi lớn lên do ảnh hưởng của đời sống xã hội mà tính tình trở nên thay đổi, tính ác có thể phát sinh, do đó cần phải luôn được giáo dục, giữ gìn và rèn luyện cho đời sống lành mạnh thì tính lành mới giữ được và phát triển để tính giữ không có điều kiện nảy sinh. Còn theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin ''Bản chất con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội''. Như vậy những biểu hiện của học sinh nữ cá biệt nêu trên đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên hoặc tình cờ mà có tất cả đều có nguyên nhân của nó. Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu, tham khảo từ nhiều kênh khác nhau tôi có thể rút ra những nguyên nhân sau đây: 3.1. Ảnh hưởng từ xã hội. Trong điều kiện kinh tế phát triển; giao lưu kinh tế - xã hội và văn hóa rộng rãi như hiện nay bên cạnh những mặt tốt cũng kéo theo nhiều mặt xấu, nó có phần gia tăng, phát triển các tệ nạn xã hội như các dịch vụ giải trí không lành mạnh, phim ảnh bạo lực, tình cảm lứa đôi quá trớn, dịch vụ internet, karaoke. Ngoài ra những tụ điểm ăn chơi ngày càng nhan nhãn đập vào mắt các em làm cho các em không tự chủ, tham gia không có ý thức dần dần tiêm nhiễm và trở thành những học sinh hư. 3.2. Ảnh hưởng từ nhà trường. Nhà trường là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gửi gắm niềm tin vào việc giáo dục con em của họ. Từ đây các em được học tập, được hiểu biết, được lớn lên từ nhiều mặt nhưng để đạt được điều đó cũng không phải là dễ. Vẫn còn đâu đó những thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, chưa nhiệt tình với các em, chưa trở thành chỗ dựa về tình thần cho các em mỗi lúc gặp khó khăn. Vẫn còn giáo viên ngại va chạm, sợ bị xúc phạm khi đối diện với học sinh hư, chưa quan tâm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi lệch lạc của học sinh cá biệt. 3.3. Ảnh hưởng từ môi trường giáo dục gia đình. * Gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hoặc chưa quan tâm đến con: Từ những khó khăn về điều kiện kinh tế, cha mẹ phải lao động vất vả, cả vợ và chồng đều đi làm ăn xa hoặc có gia đình tuy không khó khăn về kinh tế những có tham vọng làm giàu bỏ mặc con cái cho ông bà hoặc anh (chị) em chăm sóc lẫn nhau, một số học sinh chưa tự giác và thiếu sự quản lý chặt chẽ của người lớn nên nảy sinh những tư tưởng không lành mạnh, từ đó mà ham chơi, trốn học, bỏ học. * Nhiều gia đình có cha mẹ bất hòa không hạnh phúc: Lứa tuổi các em rất nhạy cảm những cuộc cải vả của cha mẹ, sự to tiếng quát nạt, bạo lực của người cha làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng từ đó nảy sinh những việc làm không lành mạnh thích đánh nhau để giải tỏa tâm lý, bị ức chế bỏ nhà đi chơi, không thiết tha đến việc học, từ đó học lực giảm sút dẫn đến chán học, bỏ học. * Những gia đình có người nghiện nhập ma túy, rượu chè, cờ bạc Ta thấy những em học sinh sống trong bầu không khí phi đạo đức, thiếu lành mạnh thì việc học sinh vi phạm nội quy, vi phạm đạo đức là rất cao. 3.4. Nguyên nhân xuất phát từ bản thân học sinh. Học sinh ở giai đoạn này tâm lý có nhiều biến đổi, lứa tuổi mà nhiều người cho rằng ''ăn chưa no, lo chưa đến'', độ tuổi thiếu niên chuyển sang thanh niên, nhiều học sinh muốn khẳng định mình bằng sự hiểu biết chưa hoàn thiện của mình. Trong suy nghĩ của các em còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì thế mà các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi. Những học sinh nữ cá biệt bị bạn bè lôi kéo, ham chơi sớm có những mối quan hệ tình yêu không lành mạnh, thích đua đòi, ăn diện dẫn đến học tập yếu kém, lười biếng, chán nản, muốn phá phách hoặc làm một điều gì đó để chứng minh cái tôi, chính vì thế mà có những hành động vượt ra khỏi những quy định chung. Tư chất của học sinh chậm trong nhận thức, hổng kiến thức từ lớp dưới nên chán học, thường hay nghịch phá, mất trật tự. Sức ép của thi cử, sức ép của gia đình, nhà trường và xã hội đã khiến cho học sinh căng thẳng rơi vào lối sống trầm cảm, tự ti về bản thân mình. Theo xu hướng hiện nay, ảnh hưởng của phim ảnh, việc bùng nổ công nghệ thông tin mà nhà nước ta chưa kiểm soát hết được nên vẫn có nhiều văn hóa phẩm đồi trụy đã tác động đến các em, trong khi đó nhận thức của các em còn non yếu. Một số học sinh xuất hiện tình cảm đầu đời mà được gọi là tình yêu từ rất sớm. Không ít em đã vượt quá giới hạn trong tình yêu nhưng thiếu hiểu biết đã dẫn đến có thai, phải nạo phá thai. Việc này đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và việc học của các em. Thậm chí các em phải bỏ học giữa chừng, kết hôn sớm, trở thành những người cha, người mẹ từ khi tuổi còn quá trẻ. Đây quả là một vấn đề hết sức nhức nhối cho nhà trường, gia đình và xã hội. * Từ thực trạng của học sinh nữ cá biệt trong nhà trường và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ấy. Bằng kinh nghiệm của bản thân và qua việc thực hiện giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường bài viết này tôi có đưa ra một số giải pháp để từng bước cảm hóa giáo dục những em học sinh cá biệt. III. Những giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt ở trường THPT Như Thanh. 1. Đối với giáo viên ở lớp có học sinh cá biệt: Bản thân người giáo viên phải là tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của mình. Người giáo viên hơn ai hết cần có trí tuệ, có lương tâm, uy tín, sống mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ tín trước học sinh. Hiểu biết tâm lý lứa tuổi của học sinh vì nội tâm của các em ở lứa tuổi này còn nhiều mặt dễ biến đổi do tâm lý chưa ổn định nhất là các em học sinh lớp 10 và sự tác động rất lớn của xã hội, hoàn cảnh sống Mỗi giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề yêu thương học sinh và luôn xác định phương châm '' Tất cả vì học sinh thân yêu ''. Biết tự kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện thiên chức của một người kỹ sư tâm hồn. Có sự nhạy cảm sư phạm, biết dùng yêu tố tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá biệt. 2. Biện pháp cụ thể: - Xác định đúng đối tượng thông qua phản ánh của lớp, của giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm và của dư luận xã hội. - Phân loại học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống ở từng khía cạnh. - Tìm hiểu nguyên nhân, sở trường, tính cách, hoàn cảnh của học sinh để hiểu rõ hơn về học sinh cần giáo dục. - Lựa chọn phương pháp giáo dục, lên kế hoạch hợp lý và thực hiện mục tiêu giáo dục, rút kinh nghiệm để giúp học sinh từ cá biệt đó trở về bình thường thậm chí là tốt sau mỗi lần giáo dục. 3. Những giải pháp cụ thể giáo dục đạo đức nữ học sinh cá biệt. 3.1. Giải pháp giáo dục bằng tâm lý: Dùng tình cảm chân tình để cảm hóa các em. Việc giáo dục đạo đức học sinh cá biệt có thể mỗi người có một cách khác nhau nhưng theo tôi việc giáo dục bằng sự gần gũi yêu thương là biện pháp hữu hiệu nhất. Việc giáo dục này không phải là ảo tưởng, đây là việc làm cực kì khó khăn đòi hỏi sự kiên trì, sự quyết tâm với nghề ''trồng người'' nhưng phải thật sự nhẫn nại, tỉ mỉ, yêu học sinh. Hãy xem học sinh cá biệt như một ''thử thách'' cần phải vượt qua, đừng coi đó như một tai nạn, một nỗi đau hay sự đen đủi khi nhận dạy lớp có học sinh cá biệt mà người giáo viên phải là người có ''tâm'' vì trong mắt các em thầy cô là ''thần tượng'' đừng để ''thần tượng'' sụp đổ, các em sẽ hẫng hụt và hoàn toàn mất phương hướng. Hầu hết nữ học sinh cá biệt không ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, không ý thức được vai trò của việc học tập đối với cuộc đời. Vì vậy các em không có thói quen tự giác, việc đi học với các em chỉ để vừa lòng cha mẹ, thầy cô, để được gặp bạn, chơi bời, không phải làm việc nhà Từ đó giáo viên cần có các biện pháp cụ thể: * Người giáo viên phải tránh cái nhìn lý tưởng hóa về lớp học. Lớp nào, trường nào cũng có học sinh cá biệt, chỉ khác là biểu hiện của cái ''cá biệt'' đó như thế nào - số lượng ít hay nhiều. * Không gọi các em học sinh là ''cá biệt'' trước mặt người khác. Các em chỉ là ''học sinh chưa ngoan'' chúng ta gọi các em như vậy vô hình dung chúng ta đã cố tách học sinh đó ra khỏi tập thể, cô lập các em. Như trong một câu danh ngôn có nói: ''Nếu bạn nhìn ai đó với ánh mắt yêu thương, bạn sẽ không nhìn thấy những nét xấu xa mà bạn sẽ chỉ nhìn thấy toàn nét đẹp mà thôi''. * Đa số các em học sinh cá biệt cần một điểm tựa tinh thần tin cậy để có thể được sẻ chia tâm sự, được bộc bạch những khó khăn, những nỗi niềm tâm tư thầm kín, thầy cô sẽ trở thành một người bạn lớn của các em. Tìm cách cho các em thể hiện cái ''tôi'' cá nhân của mình trước tập thể, không thẳng tay trừng trị các em, đừng làm mất đi điểm tựa cuối cùng của các em. Hãy nhìn các em bằng sự bao dung của người cha, sự nhân từ của người mẹ, sự gần gũi và cảm thông của người anh, người chị và là sự thân thiết của người bạn. * Thầy cô hãy nhẹ nhàng phân tích những ưu khuyết điểm trong nhận thức và hành động, cố gắng giúp các em tư nhận ra sai lầm của mình mà không phải mang mặc cảm nặng nề về lỗi lầm đó. Không nên la mắng các em, đe dọa, thành kiến. Đừng nhắc đi nhắc lại nhiều lần lỗi vi phạm vì như thế các em sẽ xấu hổ và dẫn đến chai lì. * Học sinh cá biệt dù có hư hỏng đến đâu đi chăng nữa thì bên trong các em vẫn luôn tiềm ẩn những nhân tố, những phẩm chất tích cực nếu dùng phương pháp đúng chúng ta vẫn khơi gợi làm thức tỉnh các em. Khôi phục lại niềm tin để các em thấy rằng mình không hề kém cỏi ''đồ bỏ đi''. Thầy cô hãy nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng tích cực, đừng nghiêm trọng hóa vấn đề, hãy tạo cho các em một lối thoát, một cơ hội để sửa chữa. * Thầy cô hãy cố gắng nhìn nhận sự tiến bộ của các em, nên có cái nhìn bao dung, độ lượng, chân tình, vị tha. Không nên tiết kiệm lời khen với các em vì một lời động viên khen ngợi có giá trị hơn rất nhiều những bản kiểm điểm. * Hãy tôn trọng quyền lựa chọn, sự quyết định của học sinh trong phạm vi cho phép, cùng n
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_giao_duc_dao_duc_cho_hoc_sinh_nu_ca_bi.doc