SKKN Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

SKKN Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

Chúng ta biết rằng kĩ năng sống là nhân tố quan trọng để con người vươn lên gặt hái thành công. Tuy nhiên kĩ năng sống không phải tự nhiên mà có. Kĩ năng sống là kết quả của quá trình học tập và rèn luyện bản thân mỗi con người. Ở tất cả các bậc học, giáo dục kĩ năng sống đều cần phải được quan tâm giáo dục, đặc biệt là đối với học sinh tiểu học. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là giúp trẻ rèn luyện những hành vi có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng; giúp trẻ có khả năng bảo vệ, phòng ngừa và giảm thiểu các hành vi có nguy cơ gây hại cho sức khỏe, sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ. Kĩ năng sống còn giúp trẻ ứng xử kịp thời với các tình huống. Nó giúp trẻ có cách thức tích cực để đối phó với những thách thức trong cuộc sống.

 Xét từ góc độ xã hội, sự hình thành và phát triển kỹ năng sống đã trở thành một yêu cầu quan trọng trong nhân cách con người hiện đại. Đặc biệt là đối với các công dân trẻ Việt Nam hiện nay, khi cuộc sống ngày càng có nhiều biểu hiện tiêu cực, lệch chuẩn trong một bộ phận hoc sinh, sinh viên như vấn đề nạn bạo lực học đường, sự lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của người khác, sự ỷ lại, thiếu thích nghi, thiếu nghị lực sống, không biết quý trọng bản thân .

Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ nhưng thực tiễn công tác triển khai giáo dục kỹ năng sống trong các nhà trường vẫn gặp những trở ngại nhất định.

Thứ nhất, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chưa thành môn học, chưa có trong thời khóa biểu của các nhà trường, mới chỉ dừng lại ở việc lồng ghép, tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Qua việc dự giờ và kiểm tra thực tế việc thực hiện nội dung giáo dục này trong hoạt động chuyên môn của trường thì trong thời gian qua tuy đã được giáo viên chú trọng trong việc soạn giảng và thể hiện khá tốt trong các tiết dạy trên lớp. Về cơ bản các tiết giảng có tích hợp nội dung giáo dục KNS được giáo viên thực hiện đạt các mục tiêu đề ra song vẫn còn một số thầy cô thực hiện theo kiểu đối phó,còn lơ là xem nhẹ công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.

 

doc 29 trang thuychi01 9811
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
I. MỞ ĐẦU: 
3
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Mục đích nghiên cứu:
4
3. Đối tượng nghiên cứu
4
4. Phương pháp nghiên cứu
4
5. Những điểm mới của SKKN
4
II. NỘI DUNG 
5
1. Cơ sở lý luận
5
2. Thực trạng về giáo dục Kỹ năng sống tại trường Tiểu học Nga Điền I – Nga Sơn – Thanh Hóa.
6
3. Các giải pháp chỉ đạo các hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong trường Tiểu học Nga Điền I.
9
3.1. Tuyên truyền làm rõ hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của GDKNS.
9
3.2. Bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, giáo viên.
10
3.3.Tổ chức buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần thành sân chơi bổ ích.
12
3.4.Tổ chức việc giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động xã hội, đền ơn đáp nghĩa.
13
3.5 Đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục kỹ năng sống qua các môn học và thăm quan, trải nghiệm..
15
3.6 Tổ chức giáo dục lao động cho học sinh
16
3.7 Tổ chức giáo dục sức khỏe, hướng dẫn học sinh vui chơi đúng cách, phòng tránh tai nạn thương tích.
18
3.8 Phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường tham gia giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
19
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
21
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
23
Tài liều tham khảo
24
Phụ lục 1
25
Phụ lục 2
27
Phụ lục 3
28
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SKKN
BCH
Ban chấp hành
CBQL
Cán bộ quản lý
CMHS
Cha mẹ học sinh
CSVC
Cơ sở vật chất giáo viên
GD&TĐ
Giáo dục và đào tạo
GDKNS
Giáo dục kỹ năng sống
GV
Giáo viên
GVCN
Giáo viên chủ nhiệm
HĐGD
Hoạt động giáo dục
HĐGDNGLL
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
HĐTN
Hoạt động trải nghiệm
HS
Học sinh
HS - SV
Học sinh – sinh viên
KNS
Kỹ năng sống
NGLL
Ngoài giờ lên lớp
NQ - CP
Nghị quyết - chính phủ
TH
Tiểu học
UBND
Ủy ban nhân dân
XH
Xã hội
I. MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Chúng ta biết rằng kĩ năng sống là nhân tố quan trọng để con người vươn lên gặt hái thành công. Tuy nhiên kĩ năng sống không phải tự nhiên mà có. Kĩ năng sống là kết quả của quá trình học tập và rèn luyện bản thân mỗi con người. Ở tất cả các bậc học, giáo dục kĩ năng sống đều cần phải được quan tâm giáo dục, đặc biệt là đối với học sinh tiểu học. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là giúp trẻ rèn luyện những hành vi có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng; giúp trẻ có khả năng bảo vệ, phòng ngừa và giảm thiểu các hành vi có nguy cơ gây hại cho sức khỏe, sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ. Kĩ năng sống còn giúp trẻ ứng xử kịp thời với các tình huống. Nó giúp trẻ có cách thức tích cực để đối phó với những thách thức trong cuộc sống.
 Xét từ góc độ xã hội, sự hình thành và phát triển kỹ năng sống đã trở thành một yêu cầu quan trọng trong nhân cách con người hiện đại. Đặc biệt là đối với các công dân trẻ Việt Nam hiện nay, khi cuộc sống ngày càng có nhiều biểu hiện tiêu cực, lệch chuẩn trong một bộ phận hoc sinh, sinh viên như vấn đề nạn bạo lực học đường, sự lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của người khác, sự ỷ lại, thiếu thích nghi, thiếu nghị lực sống, không biết quý trọng bản thân.
Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ nhưng thực tiễn công tác triển khai giáo dục kỹ năng sống trong các nhà trường vẫn gặp những trở ngại nhất định. 
Thứ nhất, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chưa thành môn học, chưa có trong thời khóa biểu của các nhà trường, mới chỉ dừng lại ở việc lồng ghép, tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Qua việc dự giờ và kiểm tra thực tế việc thực hiện nội dung giáo dục này trong hoạt động chuyên môn của trường thì trong thời gian qua tuy đã được giáo viên chú trọng trong việc soạn giảng và thể hiện khá tốt trong các tiết dạy trên lớp. Về cơ bản các tiết giảng có tích hợp nội dung giáo dục KNS được giáo viên thực hiện đạt các mục tiêu đề ra song vẫn còn một số thầy cô thực hiện theo kiểu đối phó,còn lơ là xem nhẹ công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Thứ hai, Hiện nay, phần lớn phụ huynh và xã hội vẫn chưa có sự thay đổi cách nhìn vẫn có những suy nghĩ cố hữu: “ tập trung vào việc học là chính” nên dù ở nông thôn hay thành thị các bậc phụ huynh vẫn hết mực ưu tiên cho lịch học văn hóa của con em mình, vô hình chung các em như những robot được lập trình với những thời khóa biểu học chính khóa, học tăng buổi, học phụ đạo
Thứ ba, Việc tổ chức các hoạt động giáo dục NGLL chưa có chiều sâu đặc biệt là việc lồng ghép giáo dục KNS thông qua hoạt động giáo dục NGLL chưa đạt được hiệu quả mong muốn; kỹ năng thực hành của một số học sinh trong các hoạt động thường ngày chưa tốt; một số giáo viên còn lơ là, xem nhẹ vai trò của nội dung giáo dục này dẫn đến chưa nhiệt tình, năng nổ trong việc phối hợp thực hiện; đặc biệt là các trường ở các vùng khó khăn như Nga Điền, thiếu thốn về cơ sở vật chất, kinh phí hạn hẹp,. Việc tổ chức các hoạt động cho học sinh thiếu sự sáng tạo, chưa có sự đồng thuận của cha mẹ học sinh. Tuy nhiên, qua thực tế trải nghiệm cùng học sinh trong một số hoạt động do Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên phát động, như hội diễn văn nghệ, TDTT, giao lưu vẽ tranh, thi báo tường, báo ảnh. Các giáo viên và ban giám hiệu nhà trường đều nhận thấy, ngoài việc tham gia hoạt động học tập ở trường đa số học sinh đều có nhu cầu muốn được thể hiện, muốn khám phá năng lực bản thân và muốn phát triển những năng lực, sở trường của mình về một số lĩnh vực nào đó nhưng do chưa có môi trường thích hợp để thể hiện và phát huy khả năng của mình hoặc chưa có sân chơi thường niên.[2]
Để giúp giáo viên trường Tiểu học Nga Điền 1 – huyện Nga Sơn có nhận thức và kiến thức đúng trong việc thực hiện hoạt động GDKNS qua trải nghiệm cho HS, từ đó nâng cao chất lượng GDKNS cho HS Tiểu học, giúp các em phát triển toàn diện, hài hòa cả đức, trí, thể, mỹ, thực hiện tốt mục tiêu GD Tiểu học. Đó cũng là lí do tôi chọn và nghiên cứu “Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”. 
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giáo dục KNS qua hoạt động trải nghiệm, đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
3. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giáo dục KNS cho học sinh ở trường tiểu học Nga Điền 1 – Nga Sơn.
Chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường tiểu học qua hoạt động trải nghiệm.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các tài, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về vấn đề QLGD, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, nhằm tìm hiểu thực trạng của việc tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, tìm hiểu các kỹ năng sống cần thiết nhất cho học sinh tiểu học ở và thực trạng việc giáo dục kỹ năng sống qua hoạt động trải nghiệm.
- Phương pháp quan sát: Quan sát cách tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, công tác giáo dục KNS cho học sinh qua hoạt động trải nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:Tìm hiểu kinh nghiệm của cán bộ quản lý các trường bạn về việc quản lý và tổ chức cũng như sử dụng các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống qua hoạt động trải nghiệm.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
Năm học 2015 – 2016, tôi đã nghiên cứu và đưa vào vận dụng sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp chỉ đạo giáo dục Kỹ năng sống cho HS trường TH Nga Điền 1 - Nga Sơn” và đã được Hội đồng Khoa học Sở Giáo dục & Đào tạo Thanh Hóa đánh giá xếp loại B.
Sau 3 năm áp dụng SKKN vào thực tế, công tác rèn kỹ năng sống cho học sinh tại trường Tiểu học Nga Điền 1 đã đem lại nhiều hiệu quả nhất định, trường đã được công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 vào năm 2017. Tuy nhiên, bên cạnh những biểu hiện tốt của học sinh vẫn còn một số những biểu hiện chưa tốt của học sinh về kỹ năng sống như: kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự học ở nhà, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng lập kế hoạch. Kỹ năng tư duy sáng tạo
 Trước thực trạng của công tác giáo dục Kỹ năng sống cho HS trường TH Nga Điền 1 - Nga Sơn và yêu cầu giáo dục kỹ năng sống trong giai đoạn hiện nay để hội nhập quốc tế. Năm học 2015 – 2016 trong sáng kiến kinh nghiệm tôi tập trung đưa ra các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động xã hội, đền ơn đáp nghĩa, qua các buổi sinh hoạt tập thể đầu tuần, cuối tuần.. tôi nhận thấy: HĐTN là hoạt động giáo dục, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong môi trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân cách, các năng lực thực tiễn, từ đó tích lũy kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình [1].
Chính vì thế mà năm học 2018 – 2019 tôi mở rộng phạm vi nghiên cứu, đưa thêm một số giải pháp trong đề tài đó là: Nâng cao nhận thức, bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, tổ chức thăm quan, trải nghiệm thực tế. Sau một năm áp dụng, tôi đã thu được những kết quả nhất định. Từ đó, tôi đã tiếp tục đúc rút kinh nghiệm và tiếp tục nghiên cứu“Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”. 
II. NỘI DUNG
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên là vấn đề được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm, chú ý. Ở Việt Nam, thời gian gần đây vấn đề giáo dục KNS cho HS là vấn đề được Đảng, Nhà Nước rất quan tâm điều đó thể hiện ở Nghị quyết hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 2, lần thứ 5 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng CSVN lần thứ IX, Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng toàn quốc các khóa X và XI; Chiến lược phát triển Giáo dục giai đoạn 2011-2020. Nghị quyết số 05/2005/NQ – CP ra ngày 18/4/2005 của Chính phủ, Luật giáo dục 2005, Luật Giáo dục sửa đổi 2009, Điều lệ trường tiểu học do Bộ GD&ĐT ban hành năm 2011 đã chỉ ra: Ngành GD&ĐT phải tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên.
Sự quan tâm của Đảng, Nhà Nước và những áp lực của XH về tình trạng đi xuống về mặt đạo đức của một bộ phận không nhỏ HS-SV, đòi hỏi ngành GD&ĐT cần tăng cường việc giáo dục KNS cho HS. Bộ GD&ĐT đã gửi các công văn hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học đối với giáo dục tiểu học. Các hướng dẫn đã nhấn mạnh: “Giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, hoạt động giáo dục và xây dựng quy tắc ứng xử văn hoá. Nhà trường chủ động phối hợp với gia đình và cộng đồng trong giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh.”[3]
Có thể khẳng định: Kỹ năng sống là một bài học quan trọng, giúp các em học sinh tự tin khi bước vào cuộc sống tương lai. Dạy trẻ kĩ năng sống là điều rất cần thiết đặc biệt đối với trẻ tiểu học, khi bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp xúc với xã hội, rất cần hoàn thiện và phát triển các kĩ năng sống cho riêng mình. Chính  những kĩ năng sống các em tiếp nhận được những năm đầu tiên đi học sẽ theo các em suốt cả cuộc sống sau này. Nếu ngay từ tiểu học các em đã có được những kĩ năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn. Nếu ngược lại sau này các em sẽ rất khó khăn để sửa chữa những kĩ năng không tốt và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Vì vậy việc dạy kỹ năng sống cho học sinh giúp các em biết làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hàng ngày; Rèn cách sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, đảm bảo mục tiêu giáo dục KNS cho học sinh trong  cộng đồng; Mở ra cơ hội, hướng suy nghĩ tích cực và tự tin, tự quyết định và lựa chọn những hành vi đúng đắn.
Việc giáo dục kỹ năng sống góp phần giải quyết tình trạng trẻ thụ động, không biết ứng phó trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, thậm chí không biết cách tìm kiếm sự giúp đỡ... Bên cạnh đó, các bài học về kỹ năng sống sẽ giúp trẻ hình thành những kĩ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Đó là những kỹ năng chúng ta phải biết để có được sự điều chỉnh, ứng xử phù hợp với những thay đổi diễn ra hằng ngày, hàng giờ. Qua học tập và rèn luyện các kỹ năng sống các em sẽ cảm nhận, thấu hiểu và trân trọng những giá trị căn bản của cuộc sống.
Ở lứa tuổi của Tiểu học, nếu chỉ dạy kỹ năng sống thông qua các môn học, qua lý thuyết suông thì chưa đủ. Hãy gắn các em vào những hoạt động bổ ích, những việc làm phù hợp với những hình thức linh hoạt, sáng tạo để thu hút trẻ, đó sẽ là điều kiện là cơ hội tốt cho trẻ tự thể hiện bản thân, được trải nghiệm cuộc sống bằng những việc làm của mình[4].
2. Thực trạng về giáo dục Kỹ năng sống tại trường Tiểu học Nga Điền I – Nga Sơn – Thanh Hóa.
Qua việc nắm bắt tình hình thực tế tôi nhận thấy hầu hết giáo viên đã có ý thức trong việc giáo dục KNS cho các em thông qua các hoạt động các hoạt động thực tế như trực nhật, quét lớp, lau bàn ghế ., tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động nhân đạo như ủng hộ người nghèo, ủng hộ bão lụt, giúp bạn gặp hoàn cảnh khó khăn trong lớp bằng hình thức quyên góp, nuôi lợn nhựa 
Trong các giờ sinh hoạt dưới cờ đầu tuần các nội dung giáo dục kỹ năng sống cũng được lồng ghép triển khai. Cụ thể như việc tuyên truyền giáo dục về thực hiện an toàn giao thông, việc thực hiện bảo vệ môi trường của các lớp, việc vui chơi của các em trong tuần  
Các hoạt động ngoài giờ lên lớp do Đội thiếu niên tổ chức như : thi vẽ tranh tuyên truyền về ma túy – HIV, bảo vệ môi trường, trò chơi dân gian 
Tuy nhiên qua thực tế nhiều hoạt động còn chưa có chiều sâu:
Ví dụ: Trong giáo dục an toàn giao thông: Giáo viên tổng phụ trách thực hiện trong giờ chào cờ đầu tuần của thì chủ yếu là dùng lời nói để vận động mà chưa có những tiểu phẩm, chưa tổ chức được các cuộc thi, các tình huống thực tế để giáo dục các em; Giáo viên chủ nhiệm sau khi dạy học sinh các tiết an toàn giao thông trên lớp chưa tổ chức thực hành được cho các em bằng các tình huống cụ thể ngoài giờ lên lớp.
Ví dụ: Trong giáo dục lao động cho học sinh của một số lớp: Đôi khi giáo viên suy nghĩ đây là những việc đơn giản em nào cũng biết làm rồi giao khoán cho các em thực hiện như việc lau bàn ghế, quét dọn lớp học, lau sàn lớp học .mà không hướng dẫn các em cách làm sao cho đúng cách dẫn đến có trường hợp các em lau cửa xong mà vẫn không sạch. Thực tế không phải học sinh nào cũng biết làm những công việc này, thậm chí có em từ nhỏ đến khi học tiểu học các em chưa bao giờ phải cầm tới cái chổi, chưa từng phải quét nhà.
Ví dụ: Việc hướng dẫn học sinh đi vệ sinh đúng cách: Hầu hết giáo viên chỉ thực hiện bằng lời nói mà rất ít giáo viên dẫn các em vào nhà vệ sinh để hướng dẫn cụ thể các em thực hiện việc đi vệ sinh đúng cách. 
Nói tóm lại: Việc giáo dục giáo dục kỹ năng sống của giáo viên bên cạnh những ưu điểm cũng còn có những mặt hạn chế nhất định mà khâu yếu nhất của giáo viên trong giáo dục kỹ năng sống đó là còn mang nặng tính lý thuyết, cụ thể là giáo viên chưa trú trọng đến giáo dục hành vi thực tế ngoài cuộc sống cho các em học sinh dẫn đến khả năng thực hành của các em trong một số trường hợp còn hạn chế.
Trong quá trình theo dõi thực tế sinh hoạt và việc tham gia các hoạt động của các em học sinh tại trường thông qua quan sát thực tế thì về cơ bản các em học sinh đều ngoan ngoãn vâng lời thầy cô, cha mẹ, lắng nghe và tiếp thu khá tốt những nội dung tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện của giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách Đội, nội qui, quy định của nhà trường. 
Các em tham gia khá nhiệt tình các hoạt động xã hội, từ thiện, văn hóa, văn nghệ Đa số các em biết vui chơi đúng cách không để xảy ra tai nạn thương tích.
Mặc dù vậy trong thực tế một số em còn có những hạn chế nhất định trong việc thực hiện các nội dung . Cụ thể như hầu hết khi hỏi các em học sinh “ Để giữ gìn trường lớp sạch, đẹp em phải làm gì?” thì các em đều trả lời được là không được vứt rác bừa bãi, vẽ bậy lên tường  tuy nhiên thực tế các em biết nhưng một số em vẫn không thực hành những nội dung các em đã trả lời.
 Ví dụ: Một số em ăn quà xong bỏ vỏ ni lông vào bồn hoa thay vì bỏ vào thùng rác, một số em còn vẽ bậy lên tường, ăn kẹo cao su nhả bã kẹo bừa bãi. . tương tự như vậy trong việc thực hiện Luật giao thông đường bộ, khi hỏi các em là “ Em hãy cho biết đi bộ tham gia giao thông như thế nào là đúng?” , các em trả lời đúng hết và rất nhanh tuy nhiên khi ra các đường các em vẫn đi theo hàng hai, hàng ba, đùa nghịch trên đường
Một số em đi vệ sinh bỏ giấy không đúng nơi quy định, không xả nước khi đi vệ sinh xong 
Một số em còn mua những đồ chơi nguy hiểm để chơi mà các em không biết được sự nguy hiểm khi chơi các trò chơi này ví dụ như súng bắn đạn cao su, kiếm, gươm hoặc những loại có thể gây thương tích, mất an toàn khi chơi. Một số em còn mua các loại bánh kẹo màu mè, không có nhãn mác của Trung Quốc hoặc của những cơ sở không đảm bảo chất lượng. Các em chưa có khả năng nhận biết để bảo vệ sức khỏe bản thân.
Đi sâu vào tìm hiểu việc giảng dạy và học tập bộ môn này thì cũng còn có điều bất cập như giáo viên chưa thực sự dành nhiều thời gian cho môn học này, việc giảng dạy còn nặng về lý thuyết, chưa dành nhiều thời gian thực hành, luyện tập cho học sinh v.v.
Hình thức tổ chức câu lạc bộ rèn kỹ năng sống cũng được chú trọng, nhà trường đã chú trọng nâng cao chất lượng câu lạc bộ, giúp học sinh tích cực tự giác tham gia các hoạt động có tác dụng tốt trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Song việc tổ chức câu lạc bộ rèn kỹ năng sống cần xây dựng nội dung chương trình cụ thể, giáo dục riêng về kỹ năng sống[6].
	Để có những nhận xét đánh giá tương đối chính xác về thực trạng vấn đề, tôi đã tiến hành khảo sát giáo viên và học sinh tại trường Tiểu học Nga Điền I thông qua một số phiếu hỏi( Nội dung phiếu hỏi ở phần phụ lục). Kết quả khảo sát như sau:
Đánh giá về các biểu hiện kỹ năng sống của học sinh Tiểu học đầu năm học 2018 – 2019.
Các KNS của học sinh
Tổng số HS
Được khảo sát
Mức độ nhận thức
Số học sinh chưa có nhận thức 
Số học sinh còn mơ hồ 
Số học sinh có nền tảng để phát triển kỹ năng sống
SL
%
SL
%
SL
%
Kỹ năng tự học
311
164
52,7
91
29,3
56
18
Kỹ năng tự giải quyêt 
311
131
42,1
150
56,94
30
0.96
Kỹ năng tự phục vụ, tự quản
311
125
40,2
143
46
43
13,8
Kỹ năng hợp tác
311
110
35,4
154
49,5
47
15,1
Kỹ năng thể hiện sự tự tin
311
120
38,6
129
41,5
62
19,9
Kỹ năng giao tiếp 
311
195
62,7
80
25,7
36
11,6
Kỹ năng tư duy sáng tạo
311
155
49,5
121
38,9
35
11,6
Nguyên nhân là do việc xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống của CBQL cũng như giáo viên chưa thật sát sao, chi tiết; các nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục kỹ năng sống chưa thật sáng tạo, chưa thu hút được sự quan tâm của học sinh; việc phối kết hợp với các tổ chức, đoàn thể ngoài nhà trường còn chưa phát huy được hết tiềm năng, việc kiểm tra, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật còn cả nể, chưa kịp thời v.v.
Một nguyên nhân nữa đó là cuộc sống của người dân được nâng cao, kinh tế gia đình phát triển nên các em được chiều chuộng hơn, dễ dẫn tới ỷ lại vào cha mẹ. Việc chăm chút con cái của cha mẹ khiến một số em quá thụ động, ích kỷ, lười lao động, kỹ năng tự phục vụ bản thân còn hạn chế. Một số khác lại quá bận rộn làm ăn buôn bán, bỏ mặc con cái, buông lỏng việc quản lý, giáo dục các em để các em quá tự do phát triển, khi được tiếp xúc với cuộc sống năng động song có khi xô bồ mà chính các em chưa đủ khả năng sàng lọc cái được, cái mất, các em dễ a dua và mắc phải sai lầm. Cũng có gia đình còn coi nhẹ chuyện học hành, rèn luyện đạo đức hoặc không quan tâm riêng đến con cái v.v. Sự thái quá hay thờ ơ của gia đình, nề nếp của gia đình cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý, đạo đức, kỹ năng sống của các em.
Với thực tiễn như trên, là người cán bộ quản lí nhà trường, tôi đã có nhiều trăn trở, suy nghĩ tìm các biện pháp khắc phục bằng cách nỗ lực tôi đã tiến hành nghiên cứu tài liệu, và đã đưa ra “Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”. 
3. Các giải pháp chỉ đạo các hoạt động giáo dục kỹ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_chi_dao_nang_cao_chat_luong_giao_duc_k.doc