SKKN Một số giải pháp chỉ đạo nâng bậc học sinh chưa hoàn thành trong học tập và rèn luyện ở trường tiểu học Thái Hòa

SKKN Một số giải pháp chỉ đạo nâng bậc học sinh chưa hoàn thành trong học tập và rèn luyện ở trường tiểu học Thái Hòa

Trong xã hội ta, giáo dục được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nhằm mục tiêu chung là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người đều được đi học, được phát triển cả về trí dục, đức dục và trở thành những công dân, những người lao động sáng tạo góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước tạo nên một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Năm học 2017-2018 là năm học thứ tư thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của BCH TW Đảng (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó phát triển phẩm chất, năng lực của người học, là một trong những nhiệm vụ mà Nghị quyết đề ra. Thực tế cho thấy, sản phẩm cuối cùng của giáo dục - đào tạo chính là chất lượng người học, đáp ứng được yêu cầu nhân lực cho xã hội .

Trong những năm học gần đây, ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều giải pháp học tập, quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết. Nội dung đổi mới được thực hiện từ Bộ GD&ĐT cho tới mỗi cơ sở giáo dục; từ đổi mới công tác quản lý, dạy học, đổi mới chương trình, sách giáo khoa, hình thức sinh hoạt chuyên môn. Đặc biệt là đổi mới trong công tác kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh. Đối với bậc Tiểu học, việc đổi mới cách đánh giá học sinh được thể chế theo quy định tại Thông tư số 22/2016/TT-BGD ĐT Thông tư: Sửa đổi, bổ sung một số điều Quy định đánh giá học sinh Tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Mục tiêu lớn nhất của Thông tư là quan tâm đến các môn học, hoạt động giáo dục, sự phát triển về năng lực và phẩm chất của mỗi học sinh đảm bảo theo tinh thần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục được nêu trong Nghị quyết .

 Thực tế, trong những năm học qua, trường Tiểu học Thái Hòa là một trường chuẩn quốc gia mức độ I nhưng vẫn còn tình tình trạng học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học hơn nữa trường đang phấn đấu đạt chuẩn mức độ II nên yêu cầu về chất lượng giáo dục cao hơn. Là một người quản lý chuyên môn, tôi đã nhận thức sâu sắc vấn đề này. Do vậy tôi đã hết sức băn khoăn, trăn trở để tìm ra một số biện pháp chỉ đạo nhằm giáo dục và rèn luyện những đối tượng học sinh chưa hoàn thành, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đáp ứng yêu cầu phát triển Giáo dục trong giai đoạn hiện nay của ngành giáo dục, của địa phương. Từng bước tạo lòng tin của phụ huynh và học sinh đối với nhà trường và các thầy cô giáo. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn và viết sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp chỉ đạo nâng bậc học sinh chưa hoàn thành trong học học tập và rèn luyện ở trường Tiểu học Thái Hòa ” để nâng cao chất lượng giáo dục.

 

doc 23 trang thuychi01 6040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp chỉ đạo nâng bậc học sinh chưa hoàn thành trong học tập và rèn luyện ở trường tiểu học Thái Hòa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN TRIỆU SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG BẬC HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH TRONG HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THÁI HÒA 
Người thực hiện: Nguyễn Thị Nhung
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thái Hòa
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý
THANH HÓA, NĂM 2018
TĨNH GIA NĂM 2014
MỤC LỤC
TT
 NỘI DUNG
TRANG
1
Bìa
 2
Mục lục
1
3
Mở đầu
2
4
Lí do chọn đề tài
2
5
Mục đích nghiên cứu
2
6
Đối tượng nghiên cứu
3
7
Phương pháp nghiên cứu
3
8
Nội dung
3
9
Cơ sở lí luận
3
10
Thực trạng của việc nâng bậc, phụ đạo học sinh ở trường Tiểu học Thái Hòa
4
11
Giải pháp và tổ chức thực hiện 
7
 12
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
18
13
Kết luận
19
14
Kiến nghị
20
15
Tài liệu tham khảo
21
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài 
Trong xã hội ta, giáo dục được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nhằm mục tiêu chung là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người đều được đi học, được phát triển cả về trí dục, đức dục và trở thành những công dân, những người lao động sáng tạo góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước tạo nên một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Năm học 2017-2018 là năm học thứ tư thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của BCH TW Đảng (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó phát triển phẩm chất, năng lực của người học, là một trong những nhiệm vụ mà Nghị quyết đề ra. Thực tế cho thấy, sản phẩm cuối cùng của giáo dục - đào tạo chính là chất lượng người học, đáp ứng được yêu cầu nhân lực cho xã hội .
Trong những năm học gần đây, ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều giải pháp học tập, quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết. Nội dung đổi mới được thực hiện từ Bộ GD&ĐT cho tới mỗi cơ sở giáo dục; từ đổi mới công tác quản lý, dạy học, đổi mới chương trình, sách giáo khoa, hình thức sinh hoạt chuyên môn... Đặc biệt là đổi mới trong công tác kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh. Đối với bậc Tiểu học, việc đổi mới cách đánh giá học sinh được thể chế theo quy định tại Thông tư số 22/2016/TT-BGD ĐT Thông tư: Sửa đổi, bổ sung một số điều Quy định đánh giá học sinh Tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Mục tiêu lớn nhất của Thông tư là quan tâm đến các môn học, hoạt động giáo dục, sự phát triển về năng lực và phẩm chất của mỗi học sinh đảm bảo theo tinh thần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục được nêu trong Nghị quyết . 
	Thực tế, trong những năm học qua, trường Tiểu học Thái Hòa là một trường chuẩn quốc gia mức độ I nhưng vẫn còn tình tình trạng học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học hơn nữa trường đang phấn đấu đạt chuẩn mức độ II nên yêu cầu về chất lượng giáo dục cao hơn. Là một người quản lý chuyên môn, tôi đã nhận thức sâu sắc vấn đề này. Do vậy tôi đã hết sức băn khoăn, trăn trở để tìm ra một số biện pháp chỉ đạo nhằm giáo dục và rèn luyện những đối tượng học sinh chưa hoàn thành, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đáp ứng yêu cầu phát triển Giáo dục trong giai đoạn hiện nay của ngành giáo dục, của địa phương. Từng bước tạo lòng tin của phụ huynh và học sinh đối với nhà trường và các thầy cô giáo. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn và viết sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp chỉ đạo nâng bậc học sinh chưa hoàn thành trong học học tập và rèn luyện ở trường Tiểu học Thái Hòa ” để nâng cao chất lượng giáo dục.
1.2. Mục đích nghiên cứu: 
	 Một số giải pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành trong học tập và rèn luyện ở trường Tiểu học để nâng cao chất lượng giáo dục.	
Mục đích cụ thể: Giúp học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập theo chuẩn
 kiến thức, kĩ năng và hình thành phát triển năng lực, phẩm chất. 
 1.3.Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu về các giải pháp chỉ đạo nâng bậc học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập. 
 1.4.Phương pháp nghiên cứu.
 Gồm có: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra, so sánh.
- Phương pháp thảo luận, đàm thoại
- Phương pháp quan sát, kiểm tra đánh giá.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
 II. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
	Mục tiêu giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.  Giáo dục Tiểu học đảm bảo cho học sinh có hiểu biết sơ giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật. Phương pháp giáo dục Tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
 	 Song, ở lứa tuổi học sinh Tiểu học, việc học là cả một quá trình lâu dài, kể từ khi bắt đầu khi các em bước vào lớp Một, đây là một bước ngoặt trong đời của mỗi học sinh, chuyển các hoạt động chủ yếu là vui chơi, múa hát ở trường Mầm non, sang các hoạt động chủ đạo học tập ở trường Tiểu học. Vào lớp Một, các em bắt đầu làm quen với môi trường học tập. Kiến thức nâng cao dần theo mỗi lớp học. Hệ thống kiến thức trong chương trình Tiểu học được xây dựng theo vòng tròn đồng tâm. Mỗi mạch kiến thức đều liên quan với nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Từ dễ đến khó và mang tính tích hợp. Trong hệ thống kiến thức ở bậc Tiểu học thì được chia thành các cung bậc kiến thức khác nhau dựa trên sự phát triển tâm lí lứa tuổi. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Việc truyền thụ kiến thức kĩ năng học tập cũng đòi hỏi phải phù hợp với sự phát triển tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh Tiểu học. 
Việc đánh giá kết quả học sinh cũng dựa trên việc học tập qua từng giai đoạn cụ thể, theo từng lớp học, theo quy định chuẩn kiến thức kĩ năng học sinh Tiểu học, theo đánh giá thông tư số TT30, sửa đổi bổ sung theo TT 22 (có hiệu lực từ ngày 6/11/2016) của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo thì việc đánh giá học sinh Tiểu học là giáo viên đánh giá, học sinh tự đánh giá và tham gia nhận xét góp ý cho bạn, khuyến khích cha mẹ học sinh tham gia đánh giá Mục tiêu đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh qua quá trình học tập, sự tiến bộ về kết quả học tập theo chuẩn kiến thức kĩ năng, năng lực , phẩm chất và hoạt động giáo dục khác theo chương trình Tiểu học.
Thông qua các lần kiểm tra, đánh giá, giáo viên kịp thời phân loại học sinh ở các mức độ tiếp thu kiến thức. Từ đó, có những điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động cơ bản, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học.
	Trong thực tế hiện nay, để đạt được mục tiêu giáo dục học sinh Tiểu học theo quy định là một vấn đề khó, bởi lẽ giáo dục học sinh Tiểu học là tổng hợp nhiều yếu tố : Nhà trường, gia đình, xã hội 
	Trong môi trường xã hội mà trẻ sống, học tập và phát triển, bên cạnh các mặt tác động, các ảnh hưởng luôn hàm chứa các yếu tố ngẫu nhiên và với vốn sống ít lại hiếu động, trẻ dễ bắt chước theo, vi phạm các chuẩn mực, tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Nhất là khi thiếu sự phối hợp đúng đắn, thiếu sự thống nhất tác động giáo dục, thậm chí có sự đối nghịch giữa nhà trường và xã hội hoặc gia đình thì hậu quả xấu trong giáo dục sẽ hiển hiện.
	Mặt khác, đối tượng học sinh không đồng đều về phát triển thể chất, tâm lí và trí tuệ, sự quan tâm chăm sóc của một số gia đình chưa được chu đáo 
	Từ những thực tế trên, để đạt được kết quả giáo dục là 100% học sinh hoàn thành chương trình lớp học như mục tiêu nhiệm vụ năm học đề ra là một vấn đề hết sức khó khăn. Song, xác định rõ mục tiêu và tầm quan trọng của việc giáo dục nêu trên, là người quản lí, phụ trách chuyên môn, chỉ đạo công tác nâng bậc học sinh chưa hoàn thành trong học tập và rèn luyện của nhà trường, bản thân tôi cũng đã phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình nhằm chỉ đạo nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trường, phấn đấu đạt mục tiêu kế hoạch giáo dục năm học đề ra.
2.2 . Thực trạng của việc nâng bậc, phụ đạo học sinh ở trường Tểu học Thái Hòa từ năm học 2016-2017 trở về trước 
2.2.1 Đánh giá về thực trạng 
 	Trường Tiểu học Thái Hòa thuộc địa bàn xã Thái Hòa- một xã thuần túy nghề nông. Đời sống kinh tế của đại bộ phận nhân dân trên địa bàn chưa cao và kéo theo không ít những bất cập những lệch lạc xuống cấp về suy nghĩ của một bộ phận nhân dân, thanh niên, học sinh.Với vai trò của người quản lý giáo dục tôi đã không ít lần trăn trở, suy nghĩ về thực trạng của địa phương mình. Cùng với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền và các ban nghành việc giáo dục nâng cao chất lượng học sinh ngày càng được quan tâm chú trọng. Công tác xã hội hoá giáo dục cũng từng bước được đẩy mạnh . Nhưng không ít nơi, không ít người dân hay phụ huynh học sinh vẫn còn có những suy nghĩ cho rằng: Giáo dục là việc của nhà trường ; “trăm sự là nhờ cô”nên chủ yếu việc học hành của học sinh là khoán trắng cho giáo viên và nhà trường. Hoặc là giáo dục không đúng phương pháp làm ảnh hường đến nhân cách và chất lượng học tập của các em. Mặt khác, do sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường kéo theo những tệ nạn xã hội ngày một gia tăng, cách cư xử và mối quan hệ giữa mọi người trong cộng đồng dân cư hay ngay trong cả một số gia đình cũng có phần “ thị trường”. Các gia đình này ít quan tâm đến việc uốn nắn cho các em những chuẩn mực đạo đức thông thường nhất như từ lời ăn tiếng nói, từ tác phong thái độ đến ý thức trách nhiệm và tính kỷ luật cũng như ý thức tự phục vụ bản thânĐiều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành năng lực và phẩm chất của học sinh. Không những thế ở lứa tuổi Tiểu học tâm lý học sinh chưa ổn định, đang hình thành và phát triển nên trong học tập, làm việc hàng ngày các em sẽ ít tập trung, ý thức học tập chưa có nhiều em chưa hiểu rõ mục đích của việc học tập . Ý thức tự giác học tập chưa cao, thiếu sự cần cù, sự cố gắng vượt qua khó khăn để học tập dễ sinh ra lười biếng, ham chơi và dẫn đến việc không hoàn thành nhiệm vụ học tập. Và như chúng ta đã biết mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về nhận thức có em tiếp thu nhanh, có em tiếp thu chậm thậm chí là không biết gì.
 Người học là vậy, còn người dạy thì sao? Cũng phải thừa nhận rằng có rất nhiều người thầy, người cô luôn trăn trở với nghề nghiệp, luôn băn khoăn về thực tế học sinh đang ngày một sa sút về chất lượng học tập cũng như phẩm chất đạo đức. Họ luôn tìm tòi mọi biện pháp để giáo dục cho học sinh một cách có hiệu quả nhất. Nhưng cũng còn không ít những giáo viên có thái độ xem nhẹ hoặc không mấy quan tâm đến việc phụ đạo để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập. Đặc biệt có tâm lý cho rằng: Dạy dàn trải theo chuẩn kiến thức và kĩ năng, không phân hóa đối tượng học sinh làm cho những học sinh tiếp thu chậm ngày một kém. 
Còn trong công tác chỉ đạo quản lý, việc chỉ đạo còn lỏng lẻo, chưa sát sao, triệt để đến việc nâng bậc học sinh nhiều. Việc hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh cũng không mấy được quan tâm nên trong kế hoạch chỉ đạo về chất lượng giáo dục đạo đức vẫn chỉ là kế hoạch chung chung, thiếu tính cụ thể, thiếu sự rứt khoát, cương quyết. Ngay trong các đợt thi đua thao giảng ở trường cũng ít có giáo viên đăng ký thao giảng môn Đạo đức vì họ cho đó là môn học khô khan, không có cơ hội để họ thể hiện về khả năng sử dụng đồ dùng dạy học và phương pháp dạy học. 
 2.2.2 Kết quả của thực trạng trên
* Về phía học sinh: Lứa tuổi các em còn nhỏ, bản thân các em chưa tự ý thức được các hành vi của mình. Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay tò mò, thích làm theo cái mới lạ, kết hợp với đặc điểm trí nhớ là nhanh nhớ , chóng quên nên sự giáo dục không thường xuyên liên tục và sát sao thì các em dễ bị lãng quên dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ học tập: Có thể phân loại nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không hoàn thành nhiệm vụ học tập như sau 
- Do hoàn cảnh gia đình; Do mất căn bản.
- Chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập. 
 * Phụ huynh: Thiếu sự quan tâm đến con em, hoặc là quan tâm không đúng
 cách.
 Do hoàn cảnh gia đình không hạnh phúc, bố mẹ bỏ nhaulàm cho trẻ bị ảnh hưởng tâm lý và chán học.
* Đối với giáo viên: Một số chưa nhận thức tốt về việc phụ đạo học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập, chưa chịu khó, tâm huyết với nghề. Không gây hứng thú cho học sinh, thiếu nghệ thuật cảm hóa kích lệ học sinh từ đó các em hổng kiến thức dẫn đến sự cam chịu, không có ý thức vươn lên. Một số giáo viên dạy học chưa phân hóa đối tượng học sinh nên học sinh tiếp thu không đồng đều.
* Đối với người quản lý: Chưa có sự kiểm tra sát sao, đúng mức đến công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Không nắm bắt được hết diễn biến tâm lý của một số học sinh đặc biệt của một số lớp. 
* Chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục.
 Để có một đánh giá về chất lượng giáo dục tôi đã khảo sát chất lượng học sinh năm học 2015-2016; 2016-2017
1) Mức độ chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập và rèn luyện theo chuẩn kiến thức, kĩ năng : học kì I. 
Năm học
Tổng
Số HS
Chưa hoàn thành
Tiếng Việt
Toán
Khoa học
LS & Địa lý
Ngoại ngữ
Các môn khác
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2015-2016
442
40
9.0
42
9.5
0
0
0
0
35
7.9
0
0
2016-2017
436
37
8,4
40
9.1
0
0
0
0
32
7.3
0
0
Năm học
Nội dung
Tổng số học sinh
Chưa Đạt
Số lượng
Tỉ lệ (%)
2015-2016
 Mức độ hình thành và phát triển năng lực
442
38
8,5
 Mức độ hình thành và phát triển phẩmchất
442
38
8,5
2016-2017
 Mức độ hình thành và phát triển năng lực
436
35
8,0
 Mức độ hình thành và phát triển phẩmchất
436
35
8,0
2) Mức độ chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập và rèn luyện theo chuẩn kiến thức, kĩ năng : cuối năm học 2015 - 2016; 2016-2017
Năm học
Tổng số HS
Chưa hoàn thành
Tiếng Việt
Toán
Khoa học
LS & Địa lý
Ngoại ngữ
Các môn khác
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2015-2016
442
10
2,3
11
2,4
0
0
0
0
9
2,0
0
0
2016-2017
436
9
2,0
10
2,3
0
0
0
0
8
1,8
0
0
Năm học
Nội dung
Tổng số học sinh
Chưa Đạt
Số lượng
Tỉ lệ (%)
2015-2016
 Mức độ hình thành và phát triển năng lực
442
10
2,3
 Mức độ hình thành và phát triển phẩmchất
442
10
2,3
2016-2017
 Mức độ hình thành và phát triển năng lực
436
8
1,8
 Mức độ hình thành và phát triển phẩmchất
436
8
1,8
 Qua khảo sát hực tế chất lượng giáo dục của trường Tiểu học thái Hoà tôi đã trăn trở tìm ra một số biện pháp trong công tác chỉ đạo chuyên môn và đã tìm ra “ Một số giải pháp chỉ nâng bậchọc sinh chưa hoàn thành trong học tập và rèn luyện ở trường Tiểu học Thái Hòa”, để nâng cao chất lượng giáo dục, giúp các em hoàn thành chương trình lớp học. 
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện 
2.3.1. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo các hoạt động chuyên môn trong đó tập trung nâng bậc học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng, năng lực, phẩm chất 
*Về học tập: Chỉ đạo giáo viên phân loại đối tượng học sinh
Bước 1: Xác định đối tượng học sinh chưa hoàn thành
Bước vào năm học, giáo viên tiến hành kiểm tra khảo sát lựa chọn  
 phân loại đối tượng học sinh có hai loại đối tượng là:
 Đối tượng mở rộng: Là đối tượng thuộc dạng học sinh chưa hoàn thành trong trong một giai đoạn, một khoảng thời gian nhất định.
  Đối tượng tập trung (đối tượng chính): Là những học sinh thật sự không có khả năng theo kịp kiến thức của bài học, hoặc bị hạn chế ở một hay nhiều kĩ 
năng cơ bản không có khả năng tự thực hiện yêu cầu của bài học. Đây là bước hết sức quan trọng để tiến hành các bước tiếp theo.
  Bước 2: Tìm nguyên nhân: 
 Từ việc đã xác định được đối tượng giáo viên phải tiến hành điều tra và xác định được nguyên nhân nào dẫn đến việc học sinh không tiếp thu được bài. Qua việc tìm hiểu, điều tra, kiểm tra, quan sát, đi thực tế. Chúng ta phải xác định rõ nguyên nhân dẫn việc không hoàn thành của từng em. Đây là bước quan trọng để có thể lựa chọn đúng giải pháp giúp các em học tiến bộ hơn. 
 Việc xác định nguyên nhân là cả một quá trình vô cùng khó khăn và phức 
tạp nhưng đó chính là điều kiện không thể thiếu để lựa chọn giải pháp giáo dục 
phù hợp cho từng đối tượng mà tôi đã tìm được nguyên nhân. 
 Chỉ đạo giáo viên lên kế hoach để phụ đạo học sinh chưa hoàn thành 
 Sau khi đã khảo sát và tìm hiểu nguyên nhân đối với những đối tượng học sinh chưa hoàn thành giáo viên lập danh sách lên kế hoạch phụ đạo từng tuần tháng, kỳ, năm theo sự chỉ đạo của chuyên môn nhà trường. 
 Trong năm học những học sinh tiếp thu chậm được giáo viên kèm cặp ngay trong giờ học chính khóa. Lúc này giáo viên phải dạy phân hóa đối tượng học sinh đây là một việc làm khó đối với giáo viên, bắt buộc giáo viên cùng một lúc phải dạy nhiều đối tượng học sinh. Riêng đối với những học sinh thu chậm giáo viên không được giàn trải kiến thức. Trong giờ dạy hằng ngày trên lớp giáo viên phải thiết kế giáo án bằng hệ thống câu hỏi hết sức rõ ràng, vừa sức ; câu hỏi phải được chia nhỏ đến mức mà học sinh bằng kinh nghiệm của mình có thể trả lời được.
 (Cô lê Thị sinh đang dạy học sinh lớp2A theo nhóm trình độ)
Còn lại số lượng kiến thức và kĩ năng mà đối tượng học sinh này chưa thể hoàn thành hết trong buổi học chính khóa sẽ được phụ đạo trong tuần. Mỗi tuần một đến hai buổi.
 Số học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học năm học trước, chuyên môn nhà trường lập kế hoạch phụ đạo, nâng bậc học sinh trong thời gian hè. Phân công giáo viên chủ nhiệm phụ đạo, nâng bậc học sinh. Học sinh chưa hoàn thành môn nào, phụ đạo môn đó.Vấn đề đặt ra là giáo viên phụ đạo học sinh trong hè nhưng không được thu tiền đây chính là một khó khăn .Vì vậy là một phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn,việc thứ nhất là đã thông tư tưởng cho giáo viên vì trách nhiệm và tình thương để dạy dỗ các em, mặt khác tư vấn với hiệu trưởng trích một phần king phí nghiêp vụ trong năm học để bồi dưỡng cho giáo viên... 
 Chỉ đạo giáo viên tạo động cơ, lòng tin, hứng thú say mê, yêu thích học tập cho học sinh.
- Nắm vững tâm lí lứa tuổi của các em học sinh tạo động cơ quyết tâm phấn đấu vươn lên để tự khẳng định mình. “ Động cơ học tập không có sẵn, không thể áp đặt, phải hình thành dần dần trong quá trình học tập dưới sự tổ chức và điều khiển của thầy ”.
 - Để thực hiện được vấn đề này, điều quan trọng là giáo viên phải luôn gần gũi, là điểm tựa đáng tin cậy của các em học sinh. Để học sinh có thể thấy rằng muốn đạt được mục tiêu trong học tập, phải có sự cố gắng quyết tâm của thầy và trò trong quá trình học tập. 
(Thầy trò lớp 3A trong giờ ra chơi - Học sinh lớp 5A làm Báo tường )
 - Tạo hứng thú từ phong cách làm việc của thầy qua từng bài giảng, từ sự gần gũi, sự nhìn nhận của thầy trong sự cố gắng, nỗ lực của học sinh. Tạo không khí vui vẻ, thoải mái trong mỗi giờ học (yêu cầu nghiêm túc nhưng nhẹ nhàng , không căng thẳng ), đây chính là nghệ thuật sư phạm của người thầy nhờ sự nắm vững kiến thức khoa học của bộ môn, hiểu và nắm vững quy luật nhận thức, tâm lý học lứa tuổi, tâm lí sư phạm..., hiểu rõ và đồng cảm với đối tượng học sinh mà mình dạy.
 - Tạo hứng thú, yêu thích bộ môn từ việc lựa chọn bài tập có ý nghĩa , bài tập có yêu cầu phù hợp với đối tượng học sinh, sao

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_chi_dao_nang_bac_hoc_sinh_chua_hoan_th.doc