SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học lớp 8 ở trường THCS Xuân Cẩm, Thường Xuân
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã xác định “phương pháp dạy học trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập sáng tao của tư duy” [8]. Bắt nguồn từ định hướng đó giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài làm cho hiệu quả giờ học đạt kết quả cao nhất.
Toán học là một môn học chiếm vị trí quan trọng trong nhà trường phổ thông nói chung, ở bậc THCS nói riêng. Dạy Toán là dạy cho học sinh các phương pháp suy luận khoa học - lô gíc. Học Toán tức là rèn khả năng tư duy và ứng dụng nhằm trang bị những vốn kiến thức hoàn chỉnh. Chính vì vậy giải toán là phương tiện tốt nhất giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy, hình thành kỹ năng, kỹ xảo.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH HỌC PHÂN MÔN HÌNH HỌC LỚP 8 Ở TRƯỜNG THCS XUÂN CẨM, THƯỜNG XUÂN Người thực hiện: Lê Thị Hà Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Xuân Cẩm SKKN thuộc môn: Toán THANH HOÁ, NĂM 2017 MỤC LỤC TT Nội dung Trang I Mở đầu 1 1 Lí do chọn đề tài 1 2 Mục đích nghiên cứu 2 3 Đối tượng nghiên cứu 2 4 Phương pháp nghiên cứu 2 5 Những điểm mới của SKKN 2 II Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 3 1 Cơ sở lí luận của SKKN 3 2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN 3 3 Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 4 4 Hiệu quả của SKKN 12 III Kết luận, kiến nghị 12 1 Kết luận 12 2 Kiến nghị 13 Tài liệu tham khảo 15 I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã xác định “phương pháp dạy học trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập sáng tao của tư duy” [8]. Bắt nguồn từ định hướng đó giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài làm cho hiệu quả giờ học đạt kết quả cao nhất. Toán học là một môn học chiếm vị trí quan trọng trong nhà trường phổ thông nói chung, ở bậc THCS nói riêng. Dạy Toán là dạy cho học sinh các phương pháp suy luận khoa học - lô gíc. Học Toán tức là rèn khả năng tư duy và ứng dụng nhằm trang bị những vốn kiến thức hoàn chỉnh. Chính vì vậy giải toán là phương tiện tốt nhất giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm, tại nhiều trường khác nhau, tôi đã thực nghiệm và đã có đề tài nghiên cứu làm tăng sự hứng thú cho học sinh học môn hình học 7 ở trường THCS Thị trấn đề tài đã rất khả quan, nay tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS Xuân Cẩm, Thường Xuân, Thanh Hóa. Tôi nhận thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản của môn Toán nói chung, phân môn hình học nói riêng điều đó thể hiện qua: chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi chưa đạt yêu cầu còn nhiều. Quá trình kiểm tra đó cho thấy phản ứng từ phía học sinh là: phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ học nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn Với trăn trở " làm gì để giúp học sinh của mình học tốt hơn môn hình học ?" [9] mà nhiều vấn đề đặt ra như: - Việc giải toán hình học không chỉ đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức mới mà cần nhớ rất nhiều kiến thức cũ của những năm học trước. - Các khái niệm mới trừu tượng, khó tiếp thu . - Khi giải toán hình học các em không biết bắt đầu từ đâu, trình bày chứng minh như thế nào cho chặt chẽ. - Mức độ nắm kiến thức của học sinh không đều nhau . - Học sinh không ham mê học hình học . - Điểm kiểm tra phân môn hình học luôn thấp hơn đại số làm kết quả chung của môn toán chưa cao . Với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi phát triển và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn hình học lớp 8 ở trường THCS Xuân Cẩm, Thường Xuân” Đề tài này tôi biết là đã có nhiều người trăn trở xong chưa có đề tài nghiên cứu nào bàn sâu vào vấn đề này, đồng nghiệp nhà trường thì chưa có kinh nghiệm để giải quyết khắc phục vấn đề này. Mà bản thân tôi thì vẫn trăn trở và tâm đắc với đề tài. Vì lí do đó tôi đã bám sát thực tế nhà trường, tâm lí, hoàn cảnh đối tượng học sinh của mình tôi mạnh dạn nghiên cứu tiếp đề tài của mình. 2. Mục đích nghiên cứu: Muốn đạt hiệu quả cao trong dạy học toán nói chung, phân môn hình học 8 nói riêng đòi hỏi không chỉ kiến thức của người thầy phải vững, phải sâu, phải có phương pháp phù hợp, mà còn đòi hỏi ở người thầy: kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm thật khéo léo. Với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “ tập làm người lớn” nên lời khen, lời động viên đối với các em phát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi nó đã tác động vào thế giới tâm lý, tình cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được đặt ra hướng các em đến những hành vi tự giác, chủ động và tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt đối với những học sinh có biểu hiện chán học hoặc khó tiếp thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào tình trạng học sa sút. Bởi vậy giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong học tập. Khi ấy người giáo viên thực sự dành cho các em một sự động viên, khích lệ kịp thời để tạo ra một bước đột phá trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề này mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy biện pháp tạo ra hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất quan trọng và lâu dài đối với nhà trường, đối với từng giáo viên. Khi xây dựng SKKN này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể đó là: - Kích thích sự say mê hứng thú của học sinh lớp 8 khi học phân môn Hình học. - Hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh. Khơi dậy tính sáng tạo và giải toán của học sinh. - Cung cấp kiến thức và phương pháp tự học cho học sinh khi học bộ môn Toán. - Phát triển năng lực tự học, biết liên kết và mở rộng các bài toán từ đó giúp các em hình thành phương pháp giải. 3. Đối tượng nghiên cứu. Biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học lớp 8 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp tổng hợp, so sánh, sơ đồ hóa. 5. Những điểm mới của SKKN. Trong phạm vi sáng kiến trước tôi đưa ra một số giải pháp giúp học sinh học tốt hơn môn hình 7 và vận dụng làm bài tập thật tốt cụ thể: sử dụng kết hợp một số phương pháp giảng dạy mới như dùng bản đồ tư duy, các buổi học vui - vui học, học nhóm,thì sáng kiến này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể đó là: - Kích thích sự say mê hứng thú của học sinh lớp 8 khi học phân môn Hình học. - Hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh. Khơi dậy tính sáng tạo và giải toán của học sinh. - Cung cấp kiến thức và phương pháp tự học cho học sinh khi học bộ môn Toán. - Phát triển năng lực tự học, biết liên kết và mở rộng các bài toán từ đó giúp các em hình thành phương pháp giải. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Hoạt động sư phạm là một hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Nó đòi hỏi giáo viên một năng lực sư phạm vững vàng, một phương pháp giảng dạy phù hợp theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Việc tạo cho học sinh niềm hứng thú học tập phân môn Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của người giáo viên. Muốn đạt được điều đó, bên cạnh việc trau dồi kiến thức chuyên môn thông qua các hình thức khác nhau thì việc nghiên cứu để tạo cho mình một tiếng nói sư phạm riêng lại rất cần thiết. Điều đó giúp giáo viên có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu, phù hợp khả năng tiếp thu của từng đối tượng. Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp dạy học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm say mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt, những năm học gần đây toàn ngành đang ra sức thực hiện cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”[12] thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy trong các em ý thức “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui” [12] đó chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học sinh học tập nói chung, phân môn Hình học nói riêng trở thành một đòi hỏi đối với người làm công tác giảng dạy. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Từ thực tiễn giảng dạy môn Toán 8 của chương trình đổi mới SGK phổ thông tại trường THCS Xuân Cẩm tôi nhận thấy rằng: môn Toán là môn khoa học luôn được chú trọng cao và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng nhất là phân môn Hình học. Bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình vẽ lại phải “mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh điểm, đường thẳng hay suy luận... kiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều so với nội dung lý thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn chặt chẽ lôgic. Nếu trong phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng, chẳng hạn như: khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa ẩn ở mẫu thức, giải bài toán bằng cách lập phương trình sách đưa ra các bước giải rất cụ thể thì phân môn Hình học lí thuyết vừa ít lại trừu tượng, các hướng đi cụ thể ít nên học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức và lượng bài tập với thời gian luyện tập cho học sinh lại quá lớn. Do đó, rất khó khăn trong việc chọn bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để hướng dẫn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà sách yêu cầu. Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ miễn cưỡng, chán nản của các em. Từ đó, nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản, làm bài tập về nhà chỉ để đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình, không biết vẽ hình bắt đầu từ đâu điều này cho thấy mỗi giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng. Hơn nữa, xã Xuân Cẩm là một xã thuần nông, nền kinh tế đang còn đặc biệt khó khăn, điều kiện học tập chưa đầy đủ, nhiều em không có thời gian học ở nhà, nhiều gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, vấn đề xã hội hoá giáo dục còn rất thấp chưa ngang tầm với giai đoạn hiện nay nên chất lượng học tập vẫn chưa cao, số học sinh bị hổng kiến thức còn nhiều, nhiều em học sinh còn có tâm lý sợ môn Hình học không muốn đi học. Trăn trở với nỗi lo học sinh không thích học môn toán nói chung và đặc biệt là không thích thậm trí sợ phân môn hình học tôi quyết định mở cuộc điều tra cụ thể về mức độ hứng thú của học sinh với phân môn hình học ở khối 8 tôi đang trực tiếp giảng dạy để từ đó tìm ra có biện pháp cụ thể khắc phụ tình trạng nói trên, cụ thể: Qua điều tra về mức độ hứng thú học môn Hình học của khối lớp 8 đầu năm cho thấy kết quả: Khối Tổng số HS Số HS có hứng thú Số HS không có hứng thú SL % SL % 8 70 8 11,42% 62 88,58% Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm phân môn Hình học thật đáng lo ngại: Tổng số HS Khá, giỏi Trung bình Yếu, kém SL % SL % SL % 70 0 0% 15 21,42% 55 78,58% Từ kết quả thực tiễn, với trăn trở của một người giáo viên thôi thúc tôi cần phải tạo ra hứng thú cho học sinh khi học phân môn hình học. 3. Các biện pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 ở trường THCS Xuân Cẩm, Thường Xuân Biện pháp 1: Tạo hứng thú cho học sinh khi tìm hiểu về kiến thức mới. Với học sinh THCS ở lứa tuổi các em rất hiếu động, thích tò mò, khám phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của mình, không thích bị áp đặt, phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức cho học sinh giáo viên phải lựa chọn những phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, kích thích được tính tò mò của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lý để chinh phục kiến thức. Như vậy, phải làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học? Rõ ràng để làm được điều này, giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của mình. Riêng tôi, khi dạy tiết hình, thường chọn cho mình một phương pháp tạo tình huống có vấn đề từ những vấn đề thực tiễn như: đưa ra một hình huống trong thực tế hoặc kể một câu chuyện có liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó, học sinh tham gia tiết học tích cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép, căng thẳng và chán nản nữa, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn. Chẳng hạn: Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” [1] tôi đưa ra tình huống: làm thế nào để gián tiếp đo khoảng cách giữa hai điểm B, C ở hai bên bờ ao. B C Khi dạy bài “Đối xứng trục” [1] vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt nhanh được một chữ H từ tờ giấy hình chữ nhật. H Khi dạy bài “Diện tích hình thang” [1] để lôi cuốn học sinh và để các em dễ nhớ công thức, giáo viên có thể cho học sinh ghi nhớ theo các câu nói vần “Muốn tính diện tích hình thang, đáy lớn, đáy nhỏ ta mang cộng vào, thế rồi nhân với chiều cao, chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra” [12] Mỗi kiểu bài đều có một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh trực quan rất thích hợp đối với hình học: mô hình, tranh vẽlà yếu tố không thể thiếu khi vào tiết dạy. Ngoài ra, giáo viên nên tìm tòi những vật thật trong thực tế để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, như dạy bài “diện tích đa giác” [1] giáo viên có thể yêu cầu học sinh về nhà tính xem diện tích mảnh vườn nhà mình bao nhiêu m2. Vận dụng các cách làm đó, học sinh tham gia xây dựng bài tích cực, đồng thời các em sẽ nhớ lâu hơn và vận dụng làm bài tập nhanh hơn. Trong mỗi tiết dạy tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3 cấp: khá giỏi, trung bình, yếu kém để giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng từ đó lôi cuốn tất cả các em cùng tham gia vào xây dựng bài học. Câu hỏi của giáo viên cũng cần phải gợi mở, dễ hiểu để kích thích sự suy nghĩ của các em. Ví dụ: Khi xây dựng định lý Ta-lét trong bài “Định lý Ta-lét trong tam giác” [2] A C B’ C’ a B Giáo viên treo bảng phụ ?3 và gợi ý: vì các đường kẻ ngang là các đường thẳng song song và cách đều nên các đoạn liên tiếp trên AB bằng nhau, các đoạn liên tiếp trên AC cũng bằng nhau. Giả sử lấy m làm đơn vị một đoạn chắn trên AB, n làm đơn vị một đoạn chắn trên AC. Hỏi học sinh kém: đoạn AB’ mấy đơn vị? Hỏi học sinh yếu: tỉ số ; từ đó so sánh hai tỉ số Gọi học sinh trung bình: so sánh hai trường hợp còn lại. Yêu cầu học sinh khá: phát biểu thành định lý từ bài toán trên. Gọi học sinh giỏi: nêu giả thiết (GT), kết luận (KL). Làm như vậy trong một tiết học tôi đã huy động hết đối tượng học sinh vào xây dựng bài học. Biện pháp 2: Tạo hứng thú cho học sinh khi vẽ hình. Học phân môn Hình học thì một yếu tố rất quan trọng là học sinh phải biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? Yếu tố nào vẽ trước? Yếu tố nào vẽ sau? Ký hiệu như thế nào? Khi vẽ thì cần dụng cụ gì?... Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới. Khi vẽ hình cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa vẽ và khi vẽ tránh vẽ hình rơi vào trường hợp đặc biệt, hình vẽ cần bao quát được tất cả các trường hợp có thể xảy ra, bổ sung các yếu tố phụ nếu cần và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang ký hiệu hình học. Để thực hiện những điều đó giáo viên phải dẫn dắt từng bước, hướng dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể: + Rèn cho học sinh có thói quen ký hiệu trên hình vẽ các trường hợp: Điểm, các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông góc, bổ sung các yếu tố phụ trên hình + Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ: Êke: Vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song Compa: Vẽ đường tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau Thước thẳng: Vẽ đường thẳng, đoạn thẳng Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học Hình học đó là sử dụng phấn màu. Khi trình bày hình vẽ trên bảng, giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lý ở các điểm đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ hình vẽ. Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm PowerPoint trình chiếu các bước vẽ hình cho học sinh quan sát. Ví dụ: Vẽ hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Do vậy khi tôi yêu cầu nêu cách vẽ hình thoi thì học sinh đã phát hiện có thể dùng compa để vẽ 2 cung tròn có bán kính bằng nhau, giao điểm của 2 cung tròn và tâm của các cung đó chính là 4 đỉnh của hình thoi. Tôi đã chuẩn bị các bước dựng hình thoi và đặt toàn bộ phần dựng hình ở chế độ tự động (Automatic) cứ 1 giây thì hiện 1 đối tượng: Cách dựng: Lấy hai điểm A, C bất kỳ. Vẽ cung tròn tâm A bán kính r và cung tròn tâm C có cùng bán kính () D A C B r Hai cung tròn trên cắt nhau tại hai điểm B và D. Kẻ các đoạn thẳng AB, BC, CD, DA ta được hình thoi ABCD. Học sinh vừa quan sát vừa lắng nghe giáo viên giới thiệu lần lượt từng bước dựng hình thoi, từ đó có thể vẽ lại dựa vào vở của mình không mấy khó khăn. Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó học sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không nên vẽ hình rơi vào trường hợp đặc biệt. Chẳng hạn: +Cho tam giác ABC thì không nên vẽ tam giác ABC là tam giác cân, tam giác vuông hay tam giác đều. + Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy M tại trung điểm của AB. Biện pháp 3: Tạo hứng thú cho học sinh khi giải bài tập. Học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn khi giải bài tập hình học vì nó có tính chặt chẽ, lôgic và trừu tượng nên giáo viên cần cho học sinh phân tích kỹ bài toán theo hướng đi lên hoặc đi xuống và cho các em nhắc lại kiến thức cũ có liên quan đến bài toán. Ví dụ 1: Bài tập 54, trang 96, (SGK toán 8 -tập 1) [1]Cho góc vuông xOy, điểm A nằm trong góc đó. Gọi B là điểm đối xứng với A qua Ox, C là điểm đối xứng với A qua Oy. Chứng minh rằng điểm B đối xứng với điểm C qua O. Khi hướng dẫn cho học sinh tôi phân tích theo sơ đồ: C A B K O x y 1 2 3 4 E B, C đối xứng nhau qua O Ý B, O, C thẳng hàng và OB = OC Ý Ô1 + Ô2 + Ô3 + Ô4 = 1800 và OB = OC = OA Ý Ô2 + Ô3 = 900, rOAB cân, rOAC cân. Khi giải bài tập giáo viên cho học sinh hoạt động theo nhóm từ 4 đến 6 người, tuỳ yêu cầu của bài toán, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc chủ định, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần, trong nhóm phân công mỗi người một việc, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, giúp đỡ lẫn nhau giải quyết vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Nhóm cử ra một người đại diện trình bày trước lớp. Ví dụ 2: Trong giờ luyện tập cuối chương “Tứ giác” giáo viên đưa ra bài tập 89, trang 111 (SGK Toán 8- tập 1) [1] Cho tam giác ABC vuông tại A, đường trung tuyến AM. Gọi D là trung điểm của AB, E là điểm đối xứng với M qua D. a) Chứng minh rằng điểm E đối xứng với điểm M qua AB. b) Các tứ giác AEMC, AEBM là hình gì? Vì sao? c) Cho BC = 4cm, tính chu vi tứ giác AEBM. d) Tam giác ABC có điều kiện gì thì AEBM là hình vuông?” Khi giải quyết bài toán này giáo viên chia lớp thành 4 nhóm theo 4 mức độ yếu kém, trung bình, khá, giỏi. Phân công nhiệm vụ: Nhóm yếu kém làm câu a); Nhóm trung bình làm câu b), Nhóm khá làm câu c); Nhóm giỏi làm câu d). Sau đó giáo viên gọi bất kỳ một đại diện nào của nhóm báo cáo kết quả. Ví dụ 3: Bài tập 21 trang 122(sgk toán 8 tập 1) [1] Tìm x sao cho diện tích hình chữ nhật ABCD gấp ba lần diện tích tam giác ADE A B D E H 2cm 5cm x C C D Sau khi hướng dẫn học sinh vẽ hình, viết GT- KL của bài toán , tôi hướng dẫn học sinh tìm hướng chứng minh bài toán bằng cách phân tích đi xuống như sau: SABCD = 3SAED x.AD= x.5=3. x =C D 3(cm) Ví dụ 4 : Bài tập 17 trang 68(sgk toán 8 tập 2) [2] Cho tam giác ABC với đường trung tuyến AM. Tia phân giác của góc AMB cắt cạnh AB ở D, tia phân giác của góc AMC cắt cạnh AC ở E. Chứng minh rằng DE//BC. Sau khi hướng dẫn học sinh vẽ hình, viết GT-KL của bài toán, tôi hướng dẫn học sinh tìm hướng chứng minh bài toán bằng cách phân tích đi lên như sau: Ví dụ 5: Bài tập 45 trang 80(sgk toán 8 tập 2) [2] Hai tam giác ABC và DEF có, ,AB = 8cm, BC = 10cm, DE = 6cm. Tính độ dài các cạnh AC, DF, và EF biết rằng AC dài hơn DF là 3cm. Sau khi hướng dẫn học sinh vẽ hình, viết GT-KL của bài toán, tôi hướng dẫn học sinh tìm hướng chứng minh bài toán bằng cách phân
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_hoc_phan_mon.doc