SKKN Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Thể dục lớp 10
Có thể nói chất lượng giáo dục nước ta đang là một vấn đề mang tính thời sự. Hiện tượng học sinh “ngồi nhầm lớp”, tỉ lệ học sinh yếu, kém ở các trường THPT không phải là ít, trong đó phải kể đến tỉ lệ học sinh yếu, kém môn Thể dục. Trong khi đó, môn Thể dục có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong giáo dục phổ thông. Ngoài mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, bao gồm các kiến thức về các nội dung môn học, các kĩ thuật động tác, các phương pháp tập luyện và thi đấu, các điều luật và cách thức làm trọng tài của môn học, ngoài ra còn rèn cho các em các kỹ năng quan sát, tổng hợp, phân tích đánh giá, suy luận, phán đoán; kỹ năng vận dụng kiến thức vào tập luyện, thi đấu, kỹ năng đọc tình huống. Học tốt môn Thể dục giúp các em có cơ thể cường tráng, khỏe mạnh, có được tinh thần thoải mái để phục vụ học tập và lao động trong cuộc sống. Việc nắm vững kiến thức cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt động sản xuất và hoạt động hằng ngày.
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, tất nhiên sẽ có sự khác nhau về năng lực học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không tiếp thu được gì thông qua các hoạt động trên lớp. Đặc biệt, các nội dung có nhiều động tác khó tập luyện, yêu cầu sự hoạt động phối hợp của nhiều nhóm cơ vào vận động. Nội dung bài học sau các em muốn vận dụng được cần phải nhớ, hiểu, vận dụng lại kiến thức đã học ở bài trước, lớp trước. Nếu học sinh đã rỗng kiến thức về các động tác cơ bản thì việc tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn, thiếu hụt dẫn đến ghi nhớ máy móc không hiểu bản chất động tác nên chán học và học yếu, kém bộ môn.
Hiện nay việc dạy học môn thể dục ở trường THPT nói chung và trường THCS &THPT Thống Nhất nói riêng tuy đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực, song việc phân loại để cung cấp “những lỗ hổng kiến thức” cho các em học sinh yếu kém vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên, GV chưa có biện pháp tác động đến tình cảm, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THCS&THPT THỐNG NHẤT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM TIẾN BỘ TRONG MÔN THỂ DỤC LỚP 10 Người thực hiện: Trương Văn Đồng Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc môn: Thể dục THANH HOÁ NĂM 2017 MỤC LỤC Nội dung Trang 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Lý do chọn đề tài 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2. NỘI DUNG 3 2.1. Cơ sở lý luận 3 2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 4 2.3. Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn thế dục lớp 10 5 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 16 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 17 3.1. Kết luận 17 3.2. Kiến nghị 17 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18 DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI 19 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Có thể nói chất lượng giáo dục nước ta đang là một vấn đề mang tính thời sự. Hiện tượng học sinh “ngồi nhầm lớp”, tỉ lệ học sinh yếu, kém ở các trường THPT không phải là ít, trong đó phải kể đến tỉ lệ học sinh yếu, kém môn Thể dục. Trong khi đó, môn Thể dục có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong giáo dục phổ thông. Ngoài mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, bao gồm các kiến thức về các nội dung môn học, các kĩ thuật động tác, các phương pháp tập luyện và thi đấu, các điều luật và cách thức làm trọng tài của môn học, ngoài ra còn rèn cho các em các kỹ năng quan sát, tổng hợp, phân tích đánh giá, suy luận, phán đoán; kỹ năng vận dụng kiến thức vào tập luyện, thi đấu, kỹ năng đọc tình huống. Học tốt môn Thể dục giúp các em có cơ thể cường tráng, khỏe mạnh, có được tinh thần thoải mái để phục vụ học tập và lao động trong cuộc sống. Việc nắm vững kiến thức cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt động sản xuất và hoạt động hằng ngày. Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, tất nhiên sẽ có sự khác nhau về năng lực học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không tiếp thu được gì thông qua các hoạt động trên lớp. Đặc biệt, các nội dung có nhiều động tác khó tập luyện, yêu cầu sự hoạt động phối hợp của nhiều nhóm cơ vào vận động. Nội dung bài học sau các em muốn vận dụng được cần phải nhớ, hiểu, vận dụng lại kiến thức đã học ở bài trước, lớp trước. Nếu học sinh đã rỗng kiến thức về các động tác cơ bản thì việc tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn, thiếu hụt dẫn đến ghi nhớ máy móc không hiểu bản chất động tác nên chán học và học yếu, kém bộ môn. Hiện nay việc dạy học môn thể dục ở trường THPT nói chung và trường THCS &THPT Thống Nhất nói riêng tuy đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực, song việc phân loại để cung cấp “những lỗ hổng kiến thức” cho các em học sinh yếu kém vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên, GV chưa có biện pháp tác động đến tình cảm, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh. Được tiếp xúc hàng ngày với các em, đó là điều kiện thuận lợi giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm lí của lứa tuổi và đề ra các biện pháp giáo dục thích hợp nhằm giúp những học sinh yếu kém có thể nắm được bài học và hoà nhập vào hoạt động học trên lớp cùng các bạn. Lớp 10 là lớp đầu cấp THPT nên việc lấp “lỗ hổng” kiến thức môn thể dục để các em có một nền tảng kiến thức vững chắc là cần thiết, tạo điều kiện cho các em học tập tiếp lên các lớp trên và có được sự tự tin trong cuộc sống. Do đó, giáo viên cần có biện pháp dạy học phù hợp giúp các em nắm chắc kiến thức cơ bản, có kĩ năng thực hiện bài tập, tích cực, hứng thú trong giờ học, từ đó thoát khỏi tình trạng yếu kém môn thể dục. Khi học tốt hơn môn thể dục thì việc định hướng nghề nghiệp tương lai cho các em sẽ rộng mở hơn, các em sẽ lựa chọn được các trường đại học, cao đẳng khối T để thi, hoặc các trường cao đẳng, trung cấp nghề phù hợp với sở thích, năng lực sức khỏe của mình. Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Thể dục lớp 10” 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Qua đề tài này, tôi mong muốn tìm ra nguyên nhân học sinh học yếu kém môn Thể dục, từ đó có những biện pháp giúp các em yêu thích, hứng thú hơn đối với môn học này cũng như các môn học khác. Tạo cho các em học sinh yếu kém có ý chí vượt qua khó khăn, rèn luyện tính kiên trì, cẩn thận và tự tin vươn lên trong học tập. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề dạy đối tượng HS yếu kém môn Thể dục. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn thể dục lớp 10. 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu lý luận dạy học. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 2. NỘI DUNG 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 2.1.1. Quan điểm của dạy học phân hoá Dạy học phân hoá là cách thức dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành các hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, nhu cầu nhận thức, các điều kiện nhận thức, nhằm tạo ra những kết quả học tập và sự phát triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng giáo dục, tức là đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học Những cấp độ và hình thức dạy học phân hoá: Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: là tìm kiếm các phương pháp, kĩ thuật dạy học để mỗi học sinh nhóm học sinh, với nhịp độ học tập khác nhau trong giờ học đều đạt kết quả mong muốn. Dạy học phân hoá ở cấp độ vi mô bao gồm dạy học phân hoá nội tại và dạy học phân hoá về tổ chức. Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô là sự tổ chức quá trình dạy học thông qua cách tổ chức các loại trường lớp khác nhau cho các đối tượng học sinh khác nhau, xây dựng các chương trình giáo dục khác nhau. Một số hình thức dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: Phân ban, dạy tự chọn, phân ban kết hợp với dạy học tự chọn, phân luồng. [8] 2.1.2. Quan điểm dạy học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực Thuật ngữ “Phương pháp dạy học tích cực” được dùng để chỉ những phương pháp gi áo dục, dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học . Trong dạy học tích cực hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy học tích cực đem lại cho người học hứng thú niềm vui trong học tập, nó phù hợp với đặc tính ưa thích hoạt động của trẻ em. Việc học đối với học sinh khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. [1, trang 22] Dạy và học tích cực tập trung trọng tâm vào hoạt động học, tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động, phát huy khả năng tự học ngay từ những lớp nhỏ ở trường phổ thông, tự học không chỉ trong giờ lên lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà cả ở nhà, trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp, không có sự hướng dẫn của giáo viên. [1, trang 23] Một số phương pháp dạy học tích cực: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề, dạy học hợp tác (dạy học theo nhóm hoặc thảo luận nhóm), học theo hợp đồng, học theo góc, học theo dự án, dạy học vĩ mô Một số kĩ thuật dạy học tích cực: kĩ thuật đặt câu hỏi, Kĩ thuật khăn phủ bàn, kĩ thuật mảnh ghép, sơ đồ tư duy, kĩ thuât “KWL”, kĩ thuật hơp tác, kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực[1] 2.1.3. Quan điểm về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh Khi đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, sẽ đặt ra yêu cầu khách quan phải đổi mới kiểm tra, đánh giá, bảo đảm đồng bộ cho quá trình hướng tới nâng cao chất lượng dạy học. Khi đổi mới kiểm tra, đánh giá bảo đảm yêu cầu khách quan, chính xác, công bằng sẽ tạo tiền đề xây dựng môi trường sư phạm thân thiện, tạo động lực mới thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới công tác quản lí. Kiểm tra, đánh giá có vai trò rất to lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của kiểm tra, đánh giá là cơ sở điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lí giáo dục. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập. Đổi mới kiểm tra đánh giá chỉ có hiệu quả khi kết hợp đánh giá của GV với tự đánh giá của HS. Sau mỗi kỳ kiểm tra, giáo viên cần bố trí thời gian trả bài, hướng dẫn HS tự đánh giá kết quả bài làm, tự cho điểm bài làm của mình, nhận xét mức độ chính xác trong chấm bài của GV. Trong quá trình dạy học và khi tiến hành kiểm tra, đánh giá GV phải biết “ khai thác lỗi” để giúp HS tự nhận rõ sai sót nhằm rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp tư duy. [2]. Để có được một đề kiểm tra phù hợp thì GV phải nắm vững các quy trình ra một đề kiểm tra. 2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Học sinh Trường THCS &THPT Thống Nhất chủ yếu có hộ khẩu thường trú ở 4 huyện: Yên Định, Ngọc Lặc, Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ. Đa số các em phải đi học xa, hoàn cảnh kinh tế lại khó khăn, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập. Đặc biệt chất lượng đầu vào rất thấp đã gây không ít khó khăn cho việc dạy học nói chung và dạy học môn Thể dục nói riêng. Sự thay đổi về môi trường học tập từ THCS lên THPT ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiếp thu kiến thức, đặc biệt đối với các HS yếu kém. Bởi thầy cô và bạn bè mới khiến cho những em HS yếu kém vốn đã thiếu tự tin trong học tập càng trở nên xa lạ với những bài học mới. Khi dạy môn Thể dục ở lớp 10 tôi nhận thấy vẫn còn tồn tại phổ biến tình trạng HS nắm kiến thức cơ bản môn Thể dục ở lớp dưới còn mơ hồ thậm chí không nhớ tên các môn học cơ bản, các bước, các giai đoạn kĩ thuật, các em chỉ nắm được một môn nào đó là chính Vì vậy việc tiếp thu kiến thức mới của các em gặp rất nhiều khó khăn. Một số em chán nản không muốn học vì thấy môn học khó thực hiện, số khác tích cực hơn thì quan sát, chú ý nghe giảng thì có thể vẫn tiếp thu kiến thức ở bài chạy ngắn do lớp dưới các em được tập luyện nhiều, đến bài thể dục nhịp điệu, bài nhảy cao nằm nghiêng, bài đá cầu hay bài cầu lông lớp 10 các em không thể theo kịp yêu cầu chung của bài họcNhiều em điều kiện học tập thiếu thốn, thiếu: dụng cụ tập luyện, cầu, vợt cầu lông, trang phục, hố nhảy cao nên ngại học hoặc muốn học nhưng do điều kiện thiếu thốn đã cản trở việc học tập của các em. Một số em có tâm lí trông chờ, lười vận động, ngại tập luyện những bài tập vận dụng lặp đi lặp lại động tác khi làm thì lóng ngóng, kĩ năng tiếp thu chậm, sợ bẩn, sợ đau Trong một lớp có sự chênh lệch khá lớn về lực học giữa những em khá giỏi (Đạt) và những em yếu kém (Chưa Đạt). Điều này càng làm cho những HS yếu kém thiếu tự tin thường không dám trình bày ý kiến cá nhân, cũng như không dám nêu thắc mắc của mình trước những vấn đề của bài học. 2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM TIẾN BỘ TRONG MÔN THỂ DỤC LỚP 10. 2.3.1. NHỮNG BIỆN PHÁP CHUNG 2.3.1.1. Tìm hiểu HS nhằm phân loại đối tượng HS yếu kém thể dục. Muốn đánh giá đúng đối tượng để từ đó có phương pháp dạy phù hợp và có những biện pháp cụ thể với từng đối tượng HS yếu kém thì GV cần nắm được đặc điểm HS yếu kém môn thể dục. GV có thể tìm hiểu thông qua học bạ THCS, qua GV chủ nhiệm và nắm đối tượng ngay ở những tiết học đầu tiên, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp. * Đặc điểm của học sinh yếu kém môn thể dục Học sinh yếu kém môn Thể dục học là những học sinh có kết quả học tập thường xuyên ở mức độ thấp, điểm kiểm tra thường xuyên chưa đạt. Sự yếu kém của học sinh trong quá trình học tập được thể hiện như sau: - Các em không thể bắt kịp chương trình học hiện tại, không có khả năng tự tập luyện ở nhà. - Học sinh lĩnh hội kiến thức chậm, nắm bản chất động tác còn hời hợt, hay nhầm lẫn với các động tác khác. Không biết vận dụng vào tập luyện và thi đấu. - Sau nhiều lần gặp khó khăn khi tiếp thu bài và thực hiện bài tập, hứng thú tập luyện đối với môn học giảm sút nghiêm trọng, khiến các em mất tự tin và rơi vào trạng thái căng thẳng, đối phó cho xong trong các giờ học. - Học sinh không chịu giao tiếp, không có hứng thú tham gia vào các hoạt động tập luyện, hoạt động giao lưu giữa thầy và trò, thái độ tập luyện còn thụ động. Tính tình thì nhút nhát, rụt rè ít khi phát biểu ý kiến xây dựng bài. - Ở HS có sức học yếu kém hoặc thiếu khả năng học tập thì thường có sức khỏe yếu, thiếu kĩ năng vận động một cách vững chắc và sâu sắc như các bạn khác cùng lớp. Sự yếu kém môn thể dục được biểu hiện ở nhiều hình thức nhưng nhìn chung HS yếu kém môn thể dục thường có các đặc điểm sau: - Có nhiều “lỗ hổng” về kiến thức, kĩ năng vận động. - Tiếp thu kiến thức chậm. - Phương pháp học tập môn thể dục chưa tốt, chưa khoa học. - Thờ ơ với giờ học thực hành, thường xuyên không luyện tập ở nhà, bỏ tiết. Giáo viên cần nắm vững những đặc điểm này để có thể giúp đỡ học sinh yếu kém một cách có hiệu quả. * Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém môn thể dục Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu kém môn Thể dục đó là - Nguyên nhân từ học sinh + Học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn khác, môn thể dục có nhiều kĩ thuật động tác, nhiều động tác khó, học sinh lười vận động thiếu vốn kiến thức cơ bản do đó các em tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn và thiếu hụt. + Một số em lười tập luyện vì sợ bẩn, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ tập luyện dẫn tới không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc tập luyện và vận dụng vào việc thi đấu. + Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong tập luyện, có thói quen lười vận động hay dựa vào giáo viên. - Nguyên nhân từ giáo viên Chưa thật sự quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh trong cả lớp mà chỉ chú trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật sự tâm lý, chưa động viên khéo léo kịp thời đối với những những tiến bộ của học sinh dù rất nhỏ. Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng thực hành môn thể dục. Không nắm chắc đối tượng HS dẫn tới chưa có phương pháp giáo dục phù hợp. Phương pháp dạy học chậm đổi mới: Nhiều giáo viên chưa chú ý đến phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn, không có phân tích kĩ thuật trên lớp, bỏ giờ dạy lý thuyết, phương tiện dạy học nghèo nàn, lạc hậu. Việc kiểm tra đánh giá học sinh chưa nghiêm túc, chưa có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập, thậm chí còn tạo điều kiện cho học sinh chây lười. Chưa tạo được không khí học tập thân thiện, giáo viên chưa phối hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh - Nguyên nhân từ phụ huynh học sinh và xã hội Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện cũng như thời gian dành cho việc học còn thiếu nên kết quả học tập theo đó bị hạn chế. Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em, thậm chí khoán trắng việc học tập của con em họ cho nhà trường. Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet và các dịch vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn. Điều này cũng là một thuận lợi nếu phụ huynh hướng dẫn con em sử dụng internet cho việc khai thác tài liệu và ôn lại kiến thứcNhưng nó cũng có mặt trái khi phụ huynh không quản được con em mình để cho các em nghiện điện tử, nghiện fecebookkhông dành thời gian cho việc học. Sau khi nắm bắt đặc điểm HS học yếu, kém môn thể dục cũng như nắm bắt nguyên nhân gây nên. GV phải đưa ra được các biện pháp phù hợp để giúp những HS này. 2.3.1.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, cởi mở Đối với lứa tuổi HS nói chung và HS lớp 10 nói riêng, tình cảm, việc làm, hành động của các em còn mang tính chất cảm tính. Các em có thể không thích học môn Thể dục chỉ vì các động tác tập luyện lặp đi, lặp lại đơn điệu và gây nhàm trán, miệt mỏi. Chính vì vậy, muốn giúp các HS yếu kém môn Thể dục tiến bộ trước hết phải làm cho các em nhận thức rõ ý nghĩa và tác dụng to lớn của tâp luyện TDTT. Bởi vậy, GV cần phải làm mẫu kĩ thuật động tác đúng, đẹp gây hứng thú tập luyện đối với học sinh, tạo cảm giác an toàn để các em bày tỏ những khó khăn trong tập luyện, trong cuộc sống của bản thân mình là yếu tố rất quan trọng. Sự khích lệ của thầy cô làm các em tự hào về mình, tự tin vào bản thân và có hứng thú tập luyện thực sự. Để thực hiện được, GV cần: - Tạo không khí tập luyện thoải mái, nhẹ nhàng, không mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Ví dụ: HS không tập chung quan sát, đừng vội quát mắng hay trách phạt mà hãy nhắc nhở nhẹ nhàng, hỏi rõ lý do, và sẵn sàng hướng dẫn lại khi em chưa hiểu bài. - Khen ngợi kịp thời, đúng lúc. Phải tìm ra ưu điểm để khen thành thật tránh để các em bị tổn thương vì nghĩ thầy cô giễu cợt mình. Ví dụ: làm đúng kĩ thuật, thực hiện động tác đẹp, khen nhãn quang quan sát tốt, khen tập trung nghe giảng, khen sự phối hợp nhịp nhàng các động tác ...Không đợi HS làm hết kĩ thuật rồi mới khen tốt. Các em thực hiện tốt từng bước kĩ thuật thì khen ngay “Đúng rồi, em tực hiện tiếp đi!”. Theo dõi quá trình thực hiện kĩ thuật của các em, nếu thấy HS bắt đầu làm sai thì phải nhắc ngay để các em không thực hiện sai động tác tiếp theo, nếu không các em sẽ nản không tự tin để tập luyện. 2.3.1.3. Giáo dục ý thức học tập GV cần giúp HS xác định đúng động cơ, thái độ học tập: học để có kiến thức, để làm người, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức đó thành kiến thức của mình. Học để lập thân lâp nghiệp cho cuộc sống tương lai sau này của chính các em, cho gia đình các em sau đó là phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tôi không quên kể cho các em nghe câu chuyện tấm gương vượt khó: “Những tấm gương vượt lên trong khó khăn để có thành tích cao” để các em thấy được muốn học tập tốt thì phải có kế hoạch, ý thức tự giác và kiên trì thì mới thành công. 2.3.2. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ 2.3.2.1. Những biện pháp giúp đỡ các đối tượng HS * Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn Các em bị thiếu đồ dùng học tập, ngoài các buổi đến lớp các em phải đi làm thêm để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian tập trung cho tập luyện. GV cần: - Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của các em qua hồ sơ, qua GV chủ nhiệm, qua bạn bè của HS đó. - Đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được. - Phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp bạn có thể mua một số đồ dùng tập luyện, bút, vở, cầu, vợt và nên chủ động cho các em mượn một số đồ dùng học tập. - Trao đổi với phụ huynh, động viên gia đình tạo điều kiện cho em học tập, để các phụ huynh này nhận thức rõ quyền lợi của các em bây giờ là được học, có thể các em sẽ không học tiếp cao đẳng, đại học nhưng các em cần được học tập để phát triển toàn diện về tư duy, thể chất. Khi có có kiến thức bước vào cuộc sống các em sẽ có khả năng tư duy linh hoạt trước thử thách của cuộc đời, việc học là việc cần thực hiện ngay bây giờ, nếu bỏ lỡ sẽ khó hoặc không còn cơ hội để làm lại, còn “đi làm kiếm tiền” thì sau này sẽ có cả cuộc đời phía trước để thực hiện. * Với những HS bị tổn thương, mất cân bằng về mặt tình cảm Một số em có bố mẹ đi làm ăn xa, ở cùng ông bà hoặc anh em họ hàng nên thiếu đi sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ. Hay có những em sống trong gia đình bố mẹ bất hoà, thường xuyên cãi vã, hoặc đã li hôn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em vì tâm lý chán nản và bản thân không có người thường xuyên nhắc nhở, quan tâm. Với đối tượng này, GV nên tìm cách thường xuyên trò chuyện gần gũi với các em (có thể nói chuyện giờ ra chơi, gọi điện thoại, kết bạn trên mạng xã hội facebook ) nhằm động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn. Một số em nảy sinh tình yêu nam nữ quá sớm gây sa sút trong học tập. Với đối tượng này, GV cần nói chuyện riêng với các em nhằm giúp các em hiểu được việc cần làm bây giờ là học tập giúp các em có được một nền tảng kiến thức cơ bản vững chắc, một công việc phù hợp. Đó chính là cơ sở vững chắc để các em có một tình yêu chân chính. Đồng thời cùng với GV chủ nhiệm kết hợp liên lạc với phụ huynh phối hợp uốn nắn, động
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_su_pham_giup_hoc_sinh_yeu_kem_tien_bo.doc