SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp B3 khóa học 2013 – 2016 qua công tác chủ nhiệm lớp

SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp B3 khóa học 2013 – 2016 qua công tác chủ nhiệm lớp

 Xã hội vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi nhiều khía cạnh khác ngoài kiến thức, tài năng. Theo World Bank, thế kỷ XXI được coi là “Kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng”. Do đó khái niệm “kỹ năng sống” được nhắc đến như một yếu tố “đủ” mang đến thành công trong cuộc sống.

 Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ, trong phần mục tiêu tổng quát về phát triển giáo dục đến năm 2020 có nêu: “Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập”.

 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam". Để làm được điều đó thì vai trò của giáo dục kỹ năng sống (KNS) phải được đề cao.

 

doc 25 trang thuychi01 7023
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp B3 khóa học 2013 – 2016 qua công tác chủ nhiệm lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỞ ĐẦU:
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 Xã hội vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi nhiều khía cạnh khác ngoài kiến thức, tài năng. Theo World Bank, thế kỷ XXI được coi là “Kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng”. Do đó khái niệm “kỹ năng sống” được nhắc đến như một yếu tố “đủ” mang đến thành công trong cuộc sống.
 Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ, trong phần mục tiêu tổng quát về phát triển giáo dục đến năm 2020 có nêu: “Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập”.
 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam". Để làm được điều đó thì vai trò của giáo dục kỹ năng sống (KNS) phải được đề cao.
 Trong trường học, người GVCN lớp có vai trò hết sức quan trọng đối với một lớp học. GVCN là người quyết định mọi sự phát triển và tiến bộ của HS, là người chịu ảnh hưởng nhiều nhất về mọi hoạt động của HS trong lớp mình chủ nhiệm. Chính vì thế, trong tác giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho HS thì GVCN lớp đóng vai trò không nhỏ.
 Với tầm quan trọng của việc giáo dục KNS cho HS và những thực trạng chung của của xã hội và của HS lớp chủ nhiệm, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp B3 khóa học 2013 – 2016 qua công tác chủ nhiệm lớp” để thực hiện trong công tác chủ nhiệm khóa học này.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Giúp HS hiểu được tầm quan trọng của kĩ năng sống trong đời sống xã hội hiện nay.
- Rèn luyện được các kĩ năng sống cơ bản để HS có thể tự tin trong cuộc sống, mạnh dạn vươn tới những ước mơ và đạt được nhiều thành công.
- Tạo ra sự hứng thú, tích cực, chủ động trong học tập và rèn luyện của HS trong quá trình học ở trường THPT. 
- Góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Đạt được mục tiêu giáo dục theo định hướng của UNESCO: Học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác, học để tự khẳng định mình.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu: 
 + 21 kỹ năng sống cơ bản cần rèn luyện cho HS THPT.
 + 12 giá trị sống đích thực của nhân loại
Phạm vi nghiên cứu: 
 42 HS lớp B3 khóa học 2013 - 2016 trường THPT Triệu Sơn 6.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
 Các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng:
Phương pháp nghiên cứu lí luận:
 Nghiên cứu tài liệu, sách, tạp chí, các công trình nghiên cứu để hình thành cơ sở lí luận cho đề tài.
Phương pháp điều tra:
 Thực hiện đối với 42 HS lớp B3 theo mẫu phiếu điều tra dự kiến.
Phương pháp phỏng vấn:
 Phỏng vấn, trò chuyện với HS lớp chủ nhiệm.
Phương pháp quan sát:
 Quan sát các hoạt động của HS: học tập, sinh hoạt lớp cuối tuần, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa, các giờ chơi
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm:
 Theo dõi hoạt động học tập, sinh hoạt, vui chơi của HS nhằm tìm hiểu kĩ về đạo đức, lí tưởng và những kĩ năng sống được biểu hiện và vận dụng trong thực tế giao tiếp của các em.
Phương pháp thống kê toán học:
 Lập bảng biểu, thống kê, phân tích, xử lí các số liệu của đề tài, giúp đánh giá vấn đề chính xác, khoa học.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
 Tổng kết, đánh giá hiệu quả thực tiễn của SKKN
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Khái quát chung về kỹ năng sống:
 1.1.1. Kỹ năng sống là gì? (Trích Modul 35 THPT)
- Quan niệm của UNESCO:
 Kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, đó là: Học để biết (Learning to know); Học để làm (Learning to do); Học để chung sống với người khác (Learning to live together); Học để tự khẳng định mình (Learning to be). Có thể hiểu KNS là: kỹ năng học tập, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, kỹ năng làm việc.
 - Quan niệm của WHO:
 Từ góc độ sức khỏe, WHO xem KNS là những kỹ năng thiết thực mà con người cần có để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Rộng hơn, KNS là những năng lực mang tính tâm lí xã hội và kỹ năng về giao tiếp để tương tác hiệu quả với người khác và giải quyết hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày. 
- Quan niệm của UNICEF:
 KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
 Tóm lại: KNS ở đây là năng lực tâm lí xã hội, tính thích ứng giúp cá nhân có khả năng làm chủ bản thân, đối phó và giải quyết hiệu quả trước các nhu cầu (sinh sống, học tập, lao động) và các thách thức (tệ nạn, căng thẳng, mâu thuẫn) hay biến cố nào đó xảy ra trong cuộc sống. KNS chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.
 1.1.2. Phân loại kỹ năng sống: (Trích Modul 35 THPT)
- Theo WHO, KNS được chia thành 3 nhóm:
 + Kỹ năng nhận thức, bao gồm các kỹ năng cụ thể như: tư duy phê phán, tư duy phân tích, khả năng sáng tạo, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, ra quyết định, tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị
 + Kỹ năng đương đầu với xúc cảm, bao gồm: ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế căng thẳng, kiểm soát được cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát và tự điểu chỉnh
 + Kỹ năng xã hội (hay kỹ năng tương tác), bao gồm: giao tiếp; tính quyết đoán; thương thuyết, từ chối, hợp tác; sự cảm thông, chia sẻ; khả năng nhận thấy sự thiện cảm của người khác
- Theo UNESCO, KNS gắn với 4 trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI:
+ Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhân thức được hậu quả
+ Học để làm:gồm các kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm
+ Học để chung sống với người khác: gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông.
+ Học để tự khẳng định mình: gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin
- Theo lí thuyết của Bloom, KNS được phân loại:
+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực nhận thức: Kỹ năng tư duy sáng tạo và tư duy phê phán.
+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực tình cảm: kỹ năng tự nhận thức và thấu cảm, tự trọng và trách nhiệm xã hội.
+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực tâm vận động:
Ra quyết định và giải quyết vấn đề.
Quan hệ liên nhân cách và giao tiếp.
Tự nhận thức.
Thấu cảm.
Tư duy sáng tạo.
Tư duy phê phán.
Đương đầu với cảm xúc và căng thẳng.
Trách nhiệm xã hội.
Tự trọng.
 1.2. Thực trạng về giáo dục KNS cho HS ở các trường THPT hiện nay:
 Tại điều 2, Luật giáo dục năm 2005 có nêu: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tuy nhiên, nội dung và phương pháp giáo dục trong các nhà trường hiện nay là còn xem trọng việc dạy chữ, chưa chú trọng đúng mức dạy làm người, nhất là việc giáo dục KNS cho học sinh.
 Khi Bộ GD&ĐT phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 - 2013, thì rèn luyện KNS là một trong năm nội dung của của phong trào này. Rèn luyện KNS cho HS bao gồm: 
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử mạnh dạn, tự tin với các tình huống trong cuộc sống, thói quen tự học, bảo quản sách vở sạch đẹp và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.
- Rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kỹ năng phòng chống, chống thiên tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hoá, đoàn kết các dân tộc anh em, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
 Năm học 2010 – 2011, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo lồng ghép, tích hợp giáo dục KNS qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp cho HS. Các Sở Giáo dục địa phương cũng đã triển khai tập huấn bồi dưỡng cho các cán bộ Đoàn, GV chủ nhiệm, GV các bộ môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Sinh học, GDCD các chuyên đề về Hoạt động giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh THPT.
 Mặc dù trong thời gian qua, giáo dục KNS đã được quan tâm nhưng hiệu quả vẫn còn nhiều hạn chế thể hiện qua thực trạng về KNS của HS còn nhiều khiếm khuyết.
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN:
 - Trường THPT Triệu Sơn 6 đóng trên địa bàn xã Dân Lực – huyện Triệu Sơn là một xã thuần nông, nhiều gia đình thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo có thu nhập thấp, không ổn định. Nhiều bậc cha mẹ mải mê kiếm tiền mà quên đi trách nhiệm giáo dục con cái và suy nghĩ nhiệm vụ này là của thầy cô, nhà trường. Lứa tuổi HS THPT, tâm sinh lý của các em đang ở giai đoạn phát triển mạnh, ưa tò mò, thích khám phá nên rất cần có sự quan tâm kịp thời của người lớn. Nếu không các em sẽ rất dễ vấp ngã hay sa vào các tệ nạn xã hội do thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh và thiếu các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống.
 - HS dự thi vào trường đa số là có lực học trung bình, ít có HS khá giỏi nên mức độ hiếu học không cao. Trong khi đó công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, HS được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, trong đó có không ít những thông tin mang nội dung không lành mạnh đã tác động đến sự nhận thức non nớt của các em, khiến các em bị “nhiễm”. Các em còn có những biểu hiện hành vi ứng xử không phù hợp trong xã hội, ứng phó hạn chế với các tình huống trong cuộc sống như: thiếu văn hóa hoặc rụt rè trong giao tiếp; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, thiếu ý thức về bản thân, gây phiền hà cho người khác... Tất cả những hiện tượng trên là do HS thiếu KNS.
 - Nhiều cán bộ GV trong trường chưa hiểu đúng mức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc rèn luyện KNS cho HS. Họ xem như đó là nhiệm vụ của môn GDCD và Đoàn Thanh niên nhà trường. Bên cạnh đó, hoạt động rèn luyện KNS cho HS đã được tiến hành lồng ghép trong bộ môn GDCD và qua các hoạt động đoàn song vẫn còn ít, chưa thực sự đáp ứng nhu được cầu thực tế. Thế nên kết quả của việc rèn luyện KNS cho HS là chưa cao. 
 - HS lớp B3 khóa học 2013 – 2016, tổng số 42 HS gồm có 17 nữ và 25 nam. Trong đó, HS nghèo và cận nghèo chiếm 23%, 64% HS có cha hoặc mẹ hay cả cha và mẹ đi làm ăn xa nhà, có em phải sống với ông bà từ nhỏ, 05 HS là con mồ côi cha hoặc mẹ. Các em đều có nhiều biểu hiện thiếu KNS.
 Từ thực trạng trên, khi nhận lớp chủ nhiệm tôi đã tìm đọc tài liệu, học hỏi đồng nghiệp, đầu tư thời gian, chuẩn bị phương tiện, phối hợp với Đoàn Thanh niên nhà trường lập kế hoạch thực hiện rèn luyện KNS cho học sinh lớp B3 khóa học 2013 – 2016. Cuối khóa học thấy kết quả đạt được rất khả quan. Vì vậy tôi có nguyện vọng chia sẻ cùng các đồng nghiệp để mong nhận được sự góp ý, xây dựng và cùng thực hiện có hiệu quả hơn nội dung này.
CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
 Việc giáo dục, rèn luyện KNS cho HS không phải ngày một ngày hai là có thể nhìn thấy được thành quả của nó. Từ việc giúp các em nhận thức đến việc các em tự ý thức để hình thành những KNS thể hiện ra bằng những hành vi cụ thể là cả một hành trình dài và vô cùng gian nan mà không phải HS nào cũng dễ dàng đạt đến đích. Để giúp các em nhận thức và rèn luyện các KNS tôi đã áp dụng một số biện pháp sau:
Thu thập thông tin về HS lớp chủ nhiệm bằng phiếu điều tra ngay từ đầu năm học lớp 10.
 Ngay khi nhận lớp mới, GVCN thường phải tìm hiểu thông tin về HS lớp mình chủ nhiệm. Đây là việc đầu tiên người GVCN phải làm và thường xuyên làm trong suốt quá trình chủ nhiệm.
      Việc thu thập các thông tin về đặc điểm tình hình HS thông qua phiếu điều tra sẽ giúp GVCN nắm bắt được sơ bộ về HS lớp mình chủ nhiệm. Biết được điểm mạnh, điểm yếu, những ước mơ hoài bão và nghề nghiệp mong muốn của từng HS trong lớp. Từ những gì điều tra được, GVCN có thể phân loại HS của lớp và tiến hành lập kế hoạch chủ nhiệm cho phù hợp.
 Thông qua viết phiếu điều tra, HS bước đầu nhận thức được về bản thân, có em đã biết đặt mục tiêu trong cuộc sống và đã có định hướng nghề nghiệp cho bản thân trong tương lai.
-> Với phiếu điều tra này tôi đã cho HS bước đầu làm quen với KN nhận thức, KN đặt mục tiêu trong cuộc sống.
Xây dựng tập thể lớp tự quản.
 Học sinh THPT đang trong lứa tuổi rất ưa hoạt động, ham hiểu biết. Các em không chỉ ước ao khám phá bí mật của thế giới xung quanh, mà còn rất muốn khám phá ra chính mình. Trong mọi hoạt động hàng ngày, không em nào không nảy sinh ý thức muốn tự khẳng định mình và tìm cách hòa mình với tập thể. Các em rất cần tự biết mình là ai. Xây dựng mô hình lớp tự quản không những thỏa mãn được nét tâm lý phổ biến ấy của HS mà còn giúp các em có cơ hội để nuôi dưỡng, rèn luyện và phát triển nhân cách, kỹ năng sống của mình theo hướng tích cực.
Cách xây dựng tập thể lớp tự quản:
- GV không cử cán bộ lớp theo chủ ý riêng cũng không áp đặt HS.
- Dùng hình thức ứng cử và đề cử để thành lập ban cán sự lớp, cán bộ Đoàn.
 + Khuyến khích HS tự ứng cử. 
 Cách làm này sẽ tạo điều kiện cho những HS thích hoạt động phong trào có điều kiện để thể hiện năng lực của mình. Tự ứng cử cũng cho thấy các em tự tin vào bản thân, có nhu cầu tham gia vào các hoạt động đoàn thể để rèn luyện và phát triển mình.
 + Đề cử:
 Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để lựa chọn những thành viên tích cực thông qua sự tín nhiệm của các thành viên khác. Người được đề cử phải là người đã khẳng định được năng lực của bản thân trước tập thể, trước người khác thì mới có được sự tín nhiệm ấy.
 Tuy nhiên, cán bộ lớp có thể thay đổi theo học kỳ hoặc tùy thuộc vào hoàn cảnh, nhu cầu của lớp.
 -> Với việc làm này tôi đã kích thích sự hăng hái, tích cực của HS, khuyến khích các em sự tự tin ở bản thân mình, nhận thức được giá trị của bản thân và tự tin khẳng mình trước tập thể. Như vậy các KN như: KN nhận thức, KN xác định giá trị, KN thể hiện sự tự tin của các em được rèn luyện, tạo điều kiện cho các em sau này luôn vững vàng trong cuộc sống.
- Giao trách nhiệm cho cán bộ lớp đề ra kế hoạch và tổ chức thực hiện các hoạt động của lớp, của Đoàn theo chủ điểm tháng. 
 Đây là cách phát huy tính tích cực chủ động của đội ngũ cán bộ lớp. Trong một năm học, các hoạt động ngoài giờ lên lớp do Đoàn trường phát động theo chủ điểm tháng khá đa dạng. Đặc biệt là tháng 3 và tháng 11 hay tổ chức thành các phong trào thi đua với các hoạt động văn hóa văn nghệ, TDTT diễn ra sôi nổi, hào hứng. Trong những dịp này, tôi để cho cán bộ lớp cùng nhau lập kế hoạch và tổ chức thực hiện nó. GVCN chỉ giữ vai trò cố vấn khi các em cần xin ý kiến và trợ giúp khi cần thiết.
 -> Với cách làm này các em đã được luyện được rất nhiều KNS cần thiết như: KN giao tiếp, KN thể hiện sự tự tin, KN hợp tác, KN tư duy sáng tạo, KN giải quyết vấn đề, KN đảm nhận trách nhiệm, KN tìm kiếm sự hỗ trợ
- Giao cho lớp trưởng điều khiển tiết sinh hoạt cuối tuần định kỳ.
 Sinh hoạt cuối tuần rất quan trọng vì đây là thời điểm tổng kết đánh giá về một tuần, một tháng học tập và rèn luyện của các thành viên trong lớp. Lớp trưởng lớp B3 điều khiển buổi sinh hoạt như sau: 
Hoạt động 1: Nhận xét, đánh giá các hoạt động trong tuần
Bước 1: Các tổ trưởng báo cáo tình hình của tổ mình phụ trách.
Bước 2: Lớp phó học tập nhận xét tình hình học tập của lớp trong tuần. 
Bước 3: Lớp phó lao động nhận xét về tình hình vệ sinh lớp học hoặc trực tuần (nếu được phân công) trong tuần.
 Hoạt động 2: Đánh giá xếp loại hạnh kiểm
Bước 1: Tổ trưởng xếp loại HK của tổ viên.
Bước 2: Thống nhất kết quả xếp loại.
- Lớp trưởng hỏi kiến các thành viên trong lớp về kết quả xếp loại của tổ trưởng.
- Xin ý kiến của GVCN, thống nhất và ghi vào bảng xếp loại.
Bước 3: Biểu dương, khen thưởng và kỷ luật.
- Biểu dương, khen thưởng những tấm gương người tốt, việc tốt trong tuần.
- HS có hạnh kiểm TB và Yếu tự nhận khuyết điểm, tự kiểm điểm và nhận phạt trực nhật hoặc lao động công ích theo sự phân công của lớp phó lao động.
- Rút kinh nghiệm chung để phát huy cái tốt, khắc phục cái chưa tốt của tuần qua.
 Hoạt động 3: Triển khai kế hoạch hoạt động tuần tiếp theo
Bước 1: Lớp trưởng thông báo kế hoạch hoạt động tuần tiếp theo.
 (dựa trên cơ sở kế hoạch của nhà trường và Đoàn TN nhà trường)
Bước 2: Các thành viên của lớp đóng góp ý kiến bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch.
Bước 3: Xin ý kiến của GVCN và thống nhất triển khai kế hoạch.
 àHoạt động này sẽ phát huy khả năng tổ chức, quản lý tập thể của lớp trưởng và các thành viên khác trong ban cán sự lớp. Các em được rèn luyện KN làm chủ cảm xúc của bản thân trước đông người, KN bình tĩnh và tự tin trong giao tiếp. 
 àHoạt động này cũng giúp cả lớp rèn luyện thêm khả năng nhận thức vấn đề. Biết phê bình và tự phê bình để từ đó rút kinh nghiệm và có phương hướng khắc phục, sửa chữa. Đồng thời tạo cho HS có ý thức phấn đấu và rèn luyện, tinh thần hợp tác giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Lập kế hoạch học tập và rèn luyện.
 Để việc học tập và rèn luyện của mỗi HS đạt kết quả tốt nhất thì mỗi em cần phải lập kế hoạch, đề ra phương pháp và cách thức thực hiện riêng của mình. Ngay từ tuần đầu tiên của năm học đầu, tôi đã yêu cầu mỗi HS đều phải lập ra:
Thời gian biểu về các hoạt động trong một ngày.
Kế hoạch học tập, rèn luyện từng học kỳ, từng năm học.
 àVới biện pháp này, tôi đã rèn luyện cho HS kỹ năng tự quản lí thời gian của mình một cách hợp lí, khoa học; hình thành ở các em KN xác định mục tiêu và phương hướng phấn đấu trong học tập và rèn luyện ở mỗi học kỳ, mỗi năm học. Đây là những KNS không thể thiếu của các em trong cuộc sống hiện đại.
Thành lập các câu lạc bộ theo chủ đề.
 Câu lạc bộ (CLB) là hình thức tổ chức tập hợp những người có chung sở thích, sự quan tâm. Tổ chức các CLB chính là điều kiện để rèn luyện KNS cho HS vì CLB có thể giúp HS phát triển năng lực, phát huy tài năng, cùng hướng tới ước mơ (Trích Modul 41, Tổ chức hoạt động tập thể cho HS THPT).
 Trong phạm vi một lớp học không thể tổ chức quá nhiều CLB theo sở thích, ý muốn của mọi người. Mặt khác, làm sao cho tất cả các thành viên của lớp đều tham gia một CLB nào đó cũng là một vấn đề khó. Do đó, trên cơ sở phiếu điều tra đầu năm học để tìm hiểu sở thích, ước mơ của HS cùng với việc động viên, khích lệ, tôi đã thành lập được ở lớp một số CLB như sau:
- CLB đọc sách: bao gồm 05 thành viên cùng chung sở thích đọc sách báo. CLB này được giao nhiệm vụ phụ trách sinh hoạt 15 phút đầu giờ với những bài học bổ ích từ sách.
- CLB bóng đá: gồm 13 thành viên, trong đó có 10 HS nam là cầu thủ bóng đá, 03 HS nữ là những cổ động viên nhiệt tình và là người giúp đỡ tận tâm cho đội bóng.
CLB bóng đá CLB thêu 
- CLB thêu: gồm có 05 thành viên cùng yêu thích công việc thêu tranh. Những tác phẩm của nhóm đều trở thành đồ trang trí rất đẹp cho phòng học của lớp và làm quà lưu niệm.
- CLB cầu lông: gồm có 06 thành viên, chia làm 3 đôi nam nữ cùng chung đam mê môn cầu lông và cùng thần tượng vận động viên cầu lông Nguyễn Tiến Minh.
- CLB hội họa: Tuy chỉ có 02 thành viên ít ỏi những cả hai đều rất nỗ lực học hỏi để cùng thực hiện ước mơ thi đậu trường Đại học Mĩ thuật công nghiệp Hà Nội và trở thành họa sĩ hay nhà thiết kế thời trang.
Tranh minh họa bài học môn Ngữ văn của CLB hội họa
- CLB văn nghệ: gồm 12 thành viên được điều hành bởi một thành viên đam mê sân khấu nghệ thuật. Mục đích của CLB này là mang đến niềm vui, tiếng cười giải trí cho mọi người. Các tiết mục văn nghệ của CLB thường được biểu diễn trong các cuộc thi văn nghệ do Đoàn 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_luyen_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_lo.doc