SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng day học phân môn “Luyện từ và câu"
Con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ: Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng "bụng bảo dạ" cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tưởng của chúng ta thành những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạnh lạc, trôi chảy và nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt. Con em chúng ta muốn lớn lên trở thành những con người hiện đại, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội phải được giáo dục đầy đủ trong gia đình, trong trường học, ngoài xã hội. Nhưng giáo dục về bản chất có thể nói, đó là sự chuyển giao các giá trị văn hóa đông tây, kim cổ một sự giao tiếp cùng thời và lịch sử mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô, là sách báo các loại: nói một cách khác giáo dục trong sự biểu hiện cụ thể của nó xét cho cùng chính là sự giao tiếp ngôn từ, giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói ( trước hết là tiếng mẹ đẻ) có ý nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói viết không xác thể hiện được ý mình suôn sẻ, thì không thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở cũng như các mối quan hệ xã hội khác được. Bởi vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện thông thể thiếu để bảo đảm thành công trong thực hiện sứ mệnh trong đại của mình.
MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG A Mở đầu 1 I Lý do chọn đề tài 1 II Mục đích nghiên cứu 2 III Đối tượng nghiên cứu 2 IV Phương pháp nghiên cứu 2 B Nội dung sáng kiến 3 1 Cơ sở lý luận 3 2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến 4 3 Giải pháp thực hiện 5 4 Hiệu quả của sáng kiến 14 C Kết luận và kiến nghị 15 1 Kết luận 15 2 Kiến nghị 15 A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: Con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ: Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng "bụng bảo dạ" cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tưởng của chúng ta thành những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạnh lạc, trôi chảy và nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt. Con em chúng ta muốn lớn lên trở thành những con người hiện đại, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội phải được giáo dục đầy đủ trong gia đình, trong trường học, ngoài xã hội. Nhưng giáo dục về bản chất có thể nói, đó là sự chuyển giao các giá trị văn hóa đông tây, kim cổ một sự giao tiếp cùng thời và lịch sử mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô, là sách báo các loại: nói một cách khác giáo dục trong sự biểu hiện cụ thể của nó xét cho cùng chính là sự giao tiếp ngôn từ, giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói ( trước hết là tiếng mẹ đẻ) có ý nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói viết không xác thể hiện được ý mình suôn sẻ, thì không thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở cũng như các mối quan hệ xã hội khác được. Bởi vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện thông thể thiếu để bảo đảm thành công trong thực hiện sứ mệnh trong đại của mình. Tuy nhiên, hầu hết các giáo viên tiểu học hiện nay đều có đủ kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp nên việc dạy để HS nắm được các kiến thức ở SGK thì không mấy khó khăn. Song để tạo hứng thú cho HS trong các giờ học môn Tiếng Việt, làm cho các em cảm thấy hứng thú, “yêu Tiếng Việt” thì không phải thầy cô nào cũng làm được. Bởi lẽ năng lực và trình độ của GV không đều, kiến thức từ ngữ, ngữ pháp Tiếng Việt thì mênh mông, tài liệu thì nhiều nhưng quan điểm khác nhau... Điều đó dẫn đến nhiều GV gặp không ít những khó khăn lúng túng trong việc lựa chọn nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học phân môn “Luyện từ và câu”. Vì những lí do trên, sau nhiều năm giảng dạy, tôi đã đi sâu nghiên cứu,tìm tòi vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sao cho giờ học đến với các em nhẹ nhàng nhưng lại hiệu quả nhất. Với kinh nghiệm tích lũy được, tôi đã quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng day học phân môn “Luyện từ và câu” để làm sáng kiến kinh nghiệm của mình. II. Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu việc dạy- học phân môn “Luyện từ và câu” của giáo viên,HS khối 5 trường Tiểu học Ba Đình để thấy được những ưu, nhược điểm. Từ đó áp dụng các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp để nâng cao chất lượng các dạy học phân môn “Luyện từ và câu” cho HS lớp 5. III. Đối tượng nghiên cứu: - Nghiên cứu thực trạng dạy học phân môn “Luyện từ và câu” lớp 5 ở trường TH Ba Đình - Các phương pháp, hình thức dạy học Luyện từ và câu để nâng cao chất lượng các giờ dạy “Luyện từ và câu” cho HS lớp 5. IV. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng các phương pháp sau: 4.1. Các PP nghiên cứu: - PP nghiêu cứu tài liệu - PP điều tra, thống kê - PP phân tích, tổng hợp - PP dự giờ,thăm lớp... 4.2. Các phương pháp dạy học: - PP dạy học “Nêu vấn đề” - PP hỏi đáp - PP trò chơi - PP Luyện tập, thực hành B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lý luận: Trong chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học, “Luyện từ và câu” được tách thành một phần môn độc lập, có vị trí ngang bằng với các phần môn khác như tập đọc, chính tả, tập làm văn.. Ngoài ra, luyện từ và câu còn được đặt trong các phân môn khác thuộc môn tiếng Việt và trong giờ học của các môn học khác. Như vậy, nội dung dạy về luyện từ và câu trong chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học nói chung ở tiểu học, chiếm một tỷ lệ đáng kể. Điều đó nói lên ý nghĩa quan trọng của việc dạy luyện từ và câu ở tiểu học. “Nói đến dạy luyện từ và câu ở tiểu học, người ta thường nói tới 3 nhiệm vụ chủ yếu là: giúp học sinh phong phú hóa vốn từ, chính xác hóa vốn từ và tích cực hóa vốn từ. Phong phú hóa vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ ngữ là xây dựng một vốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong trí nhớ học sinh, để tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn ngữ ( nghe, đọc, nói, viết) được thuận lợi. Chính xác hóa vốn từ là giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách chính xác - nhất là đối với những từ ngữ mà học sinh thu nhận được qua cách học tự nhiên, đồng thời giúp học sinh hiểu nghĩa của những từ ngữ mới. Tích cực hóa vốn từ là giúp học sinh luyện tập, sử dụng từ ngữ trong nói viết, nghĩa là giúp học sinh chuyển hóa những từ ngữ tiêu cực ( Từ ngữ mà chủ thể, hiểu nhưng không dùng hoặc ít dùng) thành những từ ngữ tích cực ( Từ ngữ được chủ thể sử dụng trong nói - viết) để phát triển kỹ năng, kỹ xảo, phát triển từ ngữ cho học sinh. Trong 3 nhiệm vụ cơ bản nói trên, nhiệm vụ phong phú hóa vốn từ, phát triển, mở rộng vốn từ được coi là trọng tâm. Bởi vì, đối với học sinh tiểu học, từ ngữ được cung cấp trong phân môn luyện từ và câu giúp các em hiểu được các phát ngôn khi nghe đọc. Ngoài ra, ở một chừng mực nào đó, phân môn “Luyện từ và câu” ở tiểu học còn có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số khái niệm có tính chất sơ giản ban đầu về cấu tạo và nghĩa của từ tiếng Việt (như các khái niệm từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa). 2. Thực trạng của vấn đề: Do luyện từ và câu là một phân môn mới và khó, cho nên giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức một tiết dạy - học Luyện từ và câu sao cho đúng yêu cầu của phân môn, đúng đặc trưng của phân môn và đạt được hiệu quả cao trong dạy - học. Dưới cái nhìn của giáo viên, có thể nói một số nội dung giảng dạy (được trình bày trong sách giáo khoa) còn ít nhiều xa lạ và phương pháp dạy phân môn này hầu như chưa định hình, cho nên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy. Giáo viên có tâm lý ngại dạy “Luyện từ và câu”. Hiệu quả dạy - học giờ “Luyện từ và câu” nhìn chung còn thấp. Có thể do mấy nguyên nhân cơ bản sau: a. Về phía giáo viên: - Vốn từ ngữ của một số giáo viên chưa phong phú, chưa đáp ứng được yêu cầu hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ. Đa số giáo viên còn lúng túng khi miêu tả, giải thích nghĩa của từ. Vì vậy giáo viên hướng dẫn học sinh tập giải nghĩa từ, làm bài tập giải nghĩa từ cũng chưa đạt hiệu quả cao. Kiến thức về từ vựng - ngữ nghĩa học của một số giáo viên còn hạn chế, nên bộc lộ những sơ suất, sai sót về kiến thức. - Cách dạy của nhiều giáo viên trong giờ Luyện từ và câu còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên, hầu như rất ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh. Các tiết dạy phân môn “Luyện từ và câu” của đa số giáo viên còn mang tính áp đặt, hình thức tổ chúc dạy học đơn điệu khiến cho giờ học căng thẳng, gây tâm lý nặng nề. Chính vì những phân môn “Luyện từ và câu” có tầm quan trọng đặc biệt, nó mang tính quyết định đến chất lượng phân môn Tập làm văn và có ảnh hưởng tích cực đến các môn học khác. - Điều kiện giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, các tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy Luyện từ và câu cũng như tranh ảnh và các đồ dụng dạy học khác chưa phong phú,việc ứng dụng CNTT chưa tích cực... b. Về phía học sinh: - Học sinh ít hứng thú học phân môn này. Hầu hết các em được hỏi ý kiến đều cho rằng: Luyện từ và câu là một môn khô và khó. Một số chủ đề còn trừu tượng, khó hiểu, không gần gũi quen thuộc. Bên cạnh đó, cách miêu tả, giải thích nghĩa một số từ trong sách giáo khoa còn mang tính chất ngôn ngữ học, chưa phù hợp với lối tư duy trực quan của các em. Trong sách giáo khoa, có những loại bài tập hoặc xuất hiện quá nhiều, gây tâm lý nhàm chán (điền từ) hoặc yêu cầu được nêu ra trong bài tập không rõ ràng, không tường minh và khó thực hiện (bài tập dùng từ viết thành đoạn văn ngắn). Lại nữa, như đã nói ở trên, cách dạy của giáo viên thì nặng về giảng giải khô khan, nặng về áp đặt. Điều này gây tâm lý mệt mỏi, ngại học phân môn Luyện từ và câu. Do vậy, để tiết dạy - học Luyện từ và câu ở lớp 5 đạt hiệu quả cao, chúng ta cần chú trọng đến việc làm thế nào để gây hứng thú, nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu cho học sinh. Từ thực tế trên, tôi nhận thấy: để thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, làm cho giờ học Luyện từ và câu trên lớp "Nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn, chất lượng hơn" như đã nêu trong văn bản chỉ đạo hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ dạy học của Bộ môn giáo dục và Đào tạo. Việc tổ chức một tiết học có tầm quan trọng đặc biệt, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả giờ học. Qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy - học sao cho giờ dạy đạt hiệu quả cao nhất. Tôi đã tiến hành theo các biện pháp sau: 3. Giải pháp và tổ chức thực hiện: * Biện pháp 1: Tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức bài học nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy được tính tích cực của học sinh. Đối với bài: "Nghĩa của từ": Nghĩa của từ là khái niệm về sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan được phản ánh vào trong ngôn ngữ, được ngôn ngữ hóa. Nói cách khác "Nghĩa của từ là các sự vật, hoạt động, tính chất, số lượng mà từ biểu thị". * Ví dụ: + Đất: Chất rắn ở trên đó người và các loại động vật đi lại, sinh sống, cây cỏ mọc. + Công nhân: Người lao động chân tay, làm việc ăn lương. Nghĩa của từ được miêu tả, giải thích rất rõ ràng trong các sách từ điển. Khi dạy về nghĩa của từ, chúng ta cần: - Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với sự vật, hoạt động, tính chất mà nó biểu thị Tôi còn tìm cách giải thích nghĩa của từ sát hợp với tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học. Cụ thể lối miêu tả, trực quan khi giải nghĩa từ. Bên cạnh đó, tôi còn chấp nhận và khuyến khích cách giải nghĩa từ theo lối "khôi phục các biểu tượng", hoặc giải nghĩa từ một cách " mộc mạc, gần gũi"... của học sinh. * Ví dụ: + Tổ quốc: đất nước mình + Bão biển: Bão ở vùng biển. + Bà ngoại: Người sinh ra mẹ Hoặc khi dạy bài Từ trái nghĩa (tiết 1 tuần 4) Khi dạy loại bài này, tôi dung bài thơ sau để giúp học sinh nhận biết từ trái nghĩa. Dòng sông bên lở bên bồi Bên lở thì đục bên bồi thì trong Khôn nhà dại chợ long đong Việc này hẳn có tay trong tay ngoài Lươn ngắn lại chê trạch dài Vụng chèo khéo chống khen ai vững vàng Vào sinh ra tử gian nan Ăn không nói có làm càn chớ nên Xấu người đẹp nết là hơn Đầu đuôi kể rõ dưới trên ngọn ngành Trống xuôi kèn ngược sao đành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may. Muốn tìm được cặp từ trái nghĩa, trước các từ còn đang "Nghi vấn", học sinh cần trả lời 2 câu hỏi nhỏ sau: thứ nhất "nghĩa của 2 từ trong mỗi câu thơ có đối lập nhau không, trái ngược nhau không?", thứ hai: "Cơ sở chung của sự đối lập về nghĩa của 2 từ là gì?". Trả lời được 2 câu hỏi trên, học sinh đã xác định có cơ sở chắc chắn về từ trái nghĩa. * Biện pháp 2: Tổ chức dạy học bằng nhiều phương pháp, hình thức dạy học. Trong quá trình dạy học, tôi đã vận dụng nhiều hình thức dạy học như thi đố, tổ chức trò chơi... đồng thời sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học nhuần nhuyễn với nhau như phương pháp nhóm, cặp, thảo luận... Như ở cuối tiết 2, tôi củng cố kiến thức bằng các tổ chức thi đố vui, để củng cố kiến thức như sau: * Ví vị Điền từ trái nghĩa vào chỗ trống trong từng cây thơ sau: Yếu trâu còn hơn ............ bò (khỏe) Có bé lại xé ra ................ đáng buồn (to) Lành làm gáo .................. làm môi (vỡ) Ở............. người cười, ở hẹp người chê (rộng) Học sinh suy nghĩ tìm từ trái nghĩa thích hợp điền vào bài đã rất hứng thú tập trung thực hiện yêu cầu bài tập. Tôi còn tổ chức trò chơi trong lớp để tạo hứng thú cho học sinh. * Ví dụ: Đặc câu với cặp từ trái nghĩa béo - gầy, khỏe - yếu... Luật chơi là em nào đặt câu xong, đúng sẽ có quyền chỉ định bạn khác. Cả lớp học đều thi nhau xung phong đặt câu. Ngay cả những học sinh trước nay rất ít khi xung phong lên bảng như em Đạt, em Thư... cũng hồ hởi tham gia vào trò chơi học tập. Hình thức vừa dạy vừa tổ chức trò chơi như vậy ngay trong không gian lớp học, tại thời gian của lớp học làm cho học sinh đỡ căng thẳng, tạo được hứng thú và niềm tin trong học tập. Cứ mỗi khi tôi cho các em tiếp xúc với đoạn thơ, câu đố, các em chăm chú theo dõi. Những đôi mắt ánh lên niềm vui thích rồi thi đua xung phong. Em được chỉ định thì phấn khởi, hồ hởi, em không được gọi thì xuýt xoa rồi những tràng vỗ tay cổ vũ... Ở dạng bài tập điền từ, học sinh cần được dựa vào từ cho sẵn (từ in đậm trong câu thơ), coi đó là từ "điểm tựa" để tìm từ có nghĩa trái ngược, tạo nên một cặp từ trái nghĩa hoàn chỉnh. Còn ở dạng bài tập đặt câu, học sinh cần căn cứ vào đặc trưng về nghĩa của cặp từ trái nghĩa đó để đặt câu có nội dung thích hợp. Hoặc khi dạy bài: Nghĩa của từ Để chuyển tải được khái niệm Nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ khi dạy bài: Nghĩa của từ, tôi đã tìm cách đặt từ vào trong câu, nói rộng hơn là đặt từ trong ngữ cảnh. Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hóa, cụ thể hóa nghĩa của từ và nhiều nghĩa, nghĩa nào là nghĩa trực tiếp, phải suy ra, hiểu rộng ra từ nghĩa gốc, không thật gần gũi quen thuộc lắm, có phần "khó hiểu" thì đó là nghĩa chuyển. Với cách dẫn dắt cụ thể như vậy, học sinh đã nhận biết được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ rất nhạy bén. Đây là loại bài dễ sa vào lối giảng giải lý thuyết khô khan, năng nề, máy móc, đơn điệu mà tôi cố gắng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc tự tìm ra tri thức bằng cách gợi dẫn thích hợp bằng những ví dụ hết sức cụ thể, rõ ràng. Ở bài tập 21 của tiết 2 tôi cho học sinh tìm từ đồng nghĩa chỉ mầu sắc qua hình thức tổ chức tìm từ trong đoạn thơ sau: * Ví dụ: Tìm các từ chỉ màu trắng: Đàn cò đậu trắng phau phau Đôi mắt trắng dã nhìn nhau hận thù Mưa rào trắng xóa đất trời Cổ tay em trắng nõn nà xinh xinh Mẹ may cho áo trắng tinh Nhìn da trắng bệch bệnh tình bên trong Tấm lòng nhân hậu trắng trong Hạt gạo trắng bóng bao công chuyên cần Nước da bạn gái trắng ngần Bãi cát trắng mịn dưới chân sóng trào Đầu trọc trắng hếu người chê Tường vôi trắng toát thôn quê đẹp giàu. Cách tổ chức như vậy nhằm củng cố kiến thức vừa đáp ứng nhu cầu tích cực hóa hoạt động học tập của các em, hình thành năng lực tư duy tốt mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển rèn luyện óc duy nghĩ tổng hợp, sự quan sát nhanh cùng với sự thích thú của lứa tuổi hiếu động, giàu cảm xúc, hồn nhiên, luôn ưa thích cái mới lạ, vui tươi, hấp dẫn. * Biện pháp 3: Mở rộng vốn từ cho học sinh. Đây là nhiệm vụ cơ bản của phân môn Luyện từ và câu. Khi có vốn từ phong phú, học sinh rất thuận lợi trong giao tiếp và tư duy. Ở lớp 5, loại bài tập mở rộng vốn từ phát triển vốn từ được sử dụng khá nhiều dưới các dạng khác nhau: Tìm từ ngữ cùng chủ đề, tìm từ có tiếng cho trước tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, tìm từ có cùng yếu tố cấu tạo. Có thể mở rộng vốn từ bằng nhiều cách: a. Cách ghép từ: Xuất phát từ từ gốc, bằng phương pháp ghép từ sẽ cho ra các từ mới . * Ví dụ: bài tập 3 tiết 3 (SGK 5) yêu cầu học sinh tìm một số từ có tiếng "đồng" (theo nghĩa là cùng). Để học sinh có được vốn từ khá phong phú, tôi đã cho học sinh thi tìm từ điền vào bài thơ sau: .................................. son sắc một lòng (đồng lòng) .................................. là chỗ cùng làng, cùng quê (đồng hương) .................................. ý hợp tâm đầu (đồng tình) .................................. sát cánh chẳng hề xa nhau (đồng đội) .................................. chung lớp chung trường (đồng môn) .................................. tiến bước trước sau nhịp nhàng (đồng hành) .................................. tay nắm chặt tay (đồng chí) .................................. sum họp bốn phương một nhà (đồng bào) .................................. quần áo quả là đẹp thay (đồng phục) .................................. hội tụ một nơi (đồng quy) .................................. cộng tác cùng nghề (đồng nghiệp) .................................. thống nhất xin mời giơ tay (đồng ý) Hay là để tìm một số từ có tiền 'cổ" (xưa, cũ). Tôi đã dẫn dắt: Người ta coi đồ cổ là vật quý, nhưng nhiều thứ cổ khác lại quý hơn nhiều. Em đọc bài thơ sau và hãy tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống để thấm thía hơn về giá trị của những thứ "cổ" ấy. Đầu xuân vui tết ... (cổ truyền) Hội làng: vật võ, đu tiên, chọi gà Ngôi chùa... làng ta (cổ kính). Mùa hè gió mát la đà bóng cây Quê mình đẹp nhất nơi đây Cây đa... hồ đầy nước trong (cổ thụ) Câu chuyện... đêm đông (cổ tích) Bà em đã kể đầy tình yêu thương .... răn dạy bao lời (cổ nhân) Chơi nhạc.... hai ba chục người (cổ điển) Lâu đài ... vắng người (cổ kính) Có cây... giữa trời mà reo (cổ thụ) b. Phương pháp liên tưởng: Từ 1 từ cho trước sẽ cho ra một từ mới cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa với từ cho sẵn. Loại bài tạp này bao gồm một số dạng sau: * Dạng 1: Điền từ vào chỗ trống Sạch sẽ là không ...................... ............................ là không lộn xộn ............................ là không luộm thuộm * Dạng 2: Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa được nêu trực tiếp. Loại bài tập này giúp học sinh thu thập thêm những từ đồng nghĩa, trái nghĩa mà trước nay bản thân chưa biết hoặc chưa nhận ra, đồng thời tạo cho học sinh một sự nhạy cảm, để đến khi có nhu cầu giao tiếp ngôn ngữ thì có thể dễ dàng huy động các từ đồng nghĩa, trái nghĩa. Có như vậy vốn từ của học sinh mới ngày càng phong phú, mới đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong hoạt động nói - viết của học sinh. c. Phương pháp láy: Tìm ra từ mới bằng cách lặp lại một bộ phận của từ, hoặc láy lại từ đã cho. * Ví dụ: Từ từ tốc "vàng" láy lại từ sẽ cho ra các từ: Vàng vọt, vàng vàng Từ từ gốc "xinh" láy từ sẽ cho các từ: Xinh xẻo, xinh xinh, xinh xắn. * Biện pháp 4: Động viên, đánh giá học sinh tích cực học tập. Trong quá trình dạy học, tôi luôn theo dõi sát sao từng học sinh trong lớp để động viên khen thưởng kịp thời sự tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất. Như em Vũ là học sinh ‘‘chưa hoàn thành’’ dịp khảo sát đầu năm, tôi đã sắp xếp ngòi cạnh em Dung là học sinh nắm vững môn Tiếng Việt của lớp. Trong quá trình dạy học, bài nào em chưa hiểu còn lúng túng khi trả lời câu hỏi tôi đã giao em Dung kèm cặp thêm. Và đúng là "Học thầy không tày học bạn" em Vũ đã có những tiến bộ rõ rệt. Em đã được tuyên dương trước lớp với những bài tập em xung phong lên bảng làm đúng yêu cầu của bài. Sau mỗi tiết học, tôi đều có sự đánh giá việc nắm kiến thức của học sinh bằng việc chấm chữa bãi trong từng tổ, nhóm. Em nào làm bài tốt tôi biểu dương trước lớp. Em nào làm bài chưa đạt yêu cầu tôi chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng và dành thời gian ra chơi, hoặc cuối giờ giảng lại cho em hiểu. * Biện pháp 5: Sử dụng tích cực các đồ dùng dạy học Đối với người giáo viên để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy thì không thể thiếu đồ dùng dạy học. Thực tế trong dạy học phân môn Luyện từ và câu lở lớp 5B năm học 2015 - 2016 tôi đã sử dụng linh hoạt đa dạng các đồ dùng dạy học như vật thật, máy chiếu... * Ví dụ: Giải thích từ "chôm chôm", tôi cho học sinh nhìn thấy quả chôm chôm (quả có gai mềm ở vỏ, khi chín vỏ có màu đỏ, cùi trắng, ngọt như quả vải). Giải nghĩa từ "bế", "ôm" tôi cho các em làm động tác để quan sát. Ngoài ra, có thể dùng tranh ảnh, mô hình, đặc
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_phan_mon_l.doc