SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành ở Trường Tiểu học Trung Lý 1 đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay
Giáo dục tiểu học là cấp học nền tảng cho hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì vậy giáo viên tiểu học sẽ là người góp phần quyết định trong việc thực hiện có chất lượng hoạt động dạy và học. Người giáo viên tiểu học có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách và tri thức của học sinh.
Mặt khác lứa tuổi học sinh tiểu học có nhiều điểm khác biệt so với lứa tuổi khác. Các em còn chưa xác định rõ ràng mục đích của việc học tập là gì. Nhiều khi các em học tập là do bố mẹ, thầy cô ép buộc hoặc cũng có khi học để được thầy cô, bố mẹ khen thưởng.
Trong những năm gần đây việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm, chuyển các hoạt động học tập vào người học, giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động dạy học nhằm phát huy khả năng và vốn sống của các em ở mức cao nhất. Vì vậy, làm thế nào để học sinh có hứng thú học tập, có nhu cầu tiếp cận tri thức một cách chủ động và tích cực. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và chuyên môn của người giáo viên. Bởi lẽ việc dạy học hướng vào đối tượng người học nếu làm không khéo dễ dẫn đến tình trạng chỉ một số học sinh học tốt được hoạt động, còn những học sinh khác thì ngồi chơi hoặc xem việc học là của những bạn học tốt. Từ đó, các em dần dần bị hổng kiến thức và dẫn đến lực học giảm sút, không hoàn thành.
Trên thực tế hiện nay sau nhiều năm thực hiện chương trình thay sách, gắn với việc thực hiện cuộc vận động hai không với bốn nội dung của Bộ Giáo dục . Mấy năm gần đây cả nước đang nóng lên vì tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp. Đây là một điều đáng buồn và đáng báo động của ngành giáo dục.
Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã không nắm được kiến thức cơ bản thì cũn đâu là nền móng cho những bậc học sau. Chính vì vậy, là một giáo viên tiểu học đang trực tiếp giảng dạy tôi thiết nghĩ cần phải có biện pháp nào đấy để rèn luyện cho học sinh chưa hoàn thành, giúp các em lĩnh hội được những kiến thức cần thiết, cơ bản của bậc học này. Trong quá trình dạy học mỗi người có một biện pháp riêng để rèn luyện học sinh chưa hoàn thành. Riêng cá nhân tôi xin được mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn học sinh chưa hoàn thành mà tôi thấy rất có hiệu quả. Đây cũng chính là lí do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành ở Trường Tiểu học Trung Lý 1 đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay”
MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU.......................................................................................................2 1.1.Lí do chọn đề tài........................................................................................2 1.2.Mục đích nghiên cứu.................................................................................2 1. 3.Đối tượng nghiên cứu...............................................................................3 1.4.Phương pháp nghiên cứu......................................................................... ..3 2. NỘI DUNG.....................................................................................................3 2.1.Cơ sở lí luận.......................................................................................3 2.2.Thực trạng.......... ................................................................................. .4 2.3. Các sáng kiến, giải pháp...........................................................................6 2.4. Hiệu quả..11 3. Kết luận, kiến nghị11 1. Mở đầu. 1.1. Lí do chọn đề tài. Giáo dục tiểu học là cấp học nền tảng cho hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì vậy giáo viên tiểu học sẽ là người góp phần quyết định trong việc thực hiện có chất lượng hoạt động dạy và học. Người giáo viên tiểu học có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách và tri thức của học sinh. Mặt khác lứa tuổi học sinh tiểu học có nhiều điểm khác biệt so với lứa tuổi khác. Các em còn chưa xác định rõ ràng mục đích của việc học tập là gì. Nhiều khi các em học tập là do bố mẹ, thầy cô ép buộc hoặc cũng có khi học để được thầy cô, bố mẹ khen thưởng. Trong những năm gần đây việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm, chuyển các hoạt động học tập vào người học, giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động dạy học nhằm phát huy khả năng và vốn sống của các em ở mức cao nhất. Vì vậy, làm thế nào để học sinh có hứng thú học tập, có nhu cầu tiếp cận tri thức một cách chủ động và tích cực. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và chuyên môn của người giáo viên. Bởi lẽ việc dạy học hướng vào đối tượng người học nếu làm không khéo dễ dẫn đến tình trạng chỉ một số học sinh học tốt được hoạt động, còn những học sinh khác thì ngồi chơi hoặc xem việc học là của những bạn học tốt. Từ đó, các em dần dần bị hổng kiến thức và dẫn đến lực học giảm sút, không hoàn thành. Trên thực tế hiện nay sau nhiều năm thực hiện chương trình thay sách, gắn với việc thực hiện cuộc vận động hai không với bốn nội dung của Bộ Giáo dục . Mấy năm gần đây cả nước đang nóng lên vì tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp. Đây là một điều đáng buồn và đáng báo động của ngành giáo dục. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã không nắm được kiến thức cơ bản thì cũn đâu là nền móng cho những bậc học sau. Chính vì vậy, là một giáo viên tiểu học đang trực tiếp giảng dạy tôi thiết nghĩ cần phải có biện pháp nào đấy để rèn luyện cho học sinh chưa hoàn thành, giúp các em lĩnh hội được những kiến thức cần thiết, cơ bản của bậc học này. Trong quá trình dạy học mỗi người có một biện pháp riêng để rèn luyện học sinh chưa hoàn thành. Riêng cá nhân tôi xin được mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn học sinh chưa hoàn thành mà tôi thấy rất có hiệu quả. Đây cũng chính là lí do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành ở Trường Tiểu học Trung Lý 1 đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay” 1.2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học ở Trường Tiểu học Trung Lý 1. Trình bày, đề nghị một số biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Các biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành ở Trường Tiểu học Trung Lý 1 đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và khái quát hóa vấn đề nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành của học sinh Trường Tiểu học Trung Lý 1 1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 1.4.2.1. Phương pháp quan sát: Quan sát, ghi chép hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh 1.4.2.2. Phương pháp điều tra: Phỏng vấn, trao đổi khảo sát điều tra số liệu theo phiếu khảo sát. 1.4.2.3. Phương pháp khảo nghiệm: Nhằm đánh giá sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất 1.4.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Trên cơ sở tổng kết hoạt động dạy học trường, từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện nay. 1.4.2.3. Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến về những biện pháp mà sáng kiến đã trình bày 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. - Các quan điểm chỉ đạo của ngành về công tác phụ đạo HS chưa hoàn thành. Muốn thực hiện một cách có hiệu quả việc hạn chế học sinh chưa hoàn thành và khắc phục tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp, cần nhận thức sâu sắc ý nghĩa và mục đích của các cuộc vận động đang thực hiện. Để xây dựng thành chương trình hành động chung cho đội ngũ cán bộ, giáo viên trong toàn ngành, hướng vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Xuất phát từ thực trạng tình hình thực tế của nhà trường, điều kiện thực tế của địa phương, để có kế hoạch cụ thể từng thời kì, từng giai đoạn để triển khai thực hiện. Mặc dù đơn vị ở vùng có diều kiện khó khăn nhưng cũng phải tạo được sự chuyển biến nhất định qua từng năm về công tác này. Tránh hiện tượng “ đầu voi đuôi chuột”, “ đánh trống thả dùi”, tránh chủ quan nóng vội, tránh quá tải hoặc quá hữu, để không rơi vào tình trạng nảy sinh hậu quả nặng nề trong việc thực hiện các mục tiêu trọng tâm về phát triển giáo dục, những vấn đề khó khắc phục, khó điều hoà cân bằng được. Phải phát triển đồng bộ các biện pháp, giải pháp, từ tuyên truyền vận động, thuyết phục, lên kế hoạch triển khai, đến phối hợp các lực lượng cùng tham gia góp sức, trong đó cần định rõ và chỉ đạo kiên quyết những giải pháp cơ bản, trọng tâm, xác định rõ lực lượng nòng cốt trong việc triển khai thực hiện. Công tác tạo chuyển biến chất lượng học sinh chưa hoàn thành, khắc phục tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp là công việc thường xuyên, trọng tâm trong hoạt động dạy học, nhằm đảm bảo chất lượng phổ cập giáo dục, muốn vậy phải có sự đầu tư mạnh mẽ về các điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu này. - Căn cứ công văn số 8165/BGD-ĐT-VP ngày 02/8/2007 về việc phối hợp tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg của Thủ tướng về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục và cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung, đồng thời thực hiện cuộc vận động " Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo". - UBND huyện Mường Lát (2013) có đề án "Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo huyện Mường Lát giai đoạn 2013 – 2020" 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trường Tiểu học Trung Lý 1 thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Trường cách trung tâm huyện 50 km, trường gồm 9 điểm trưởng ở các bản. Giao thông đi lại với các bản còn gặp nhiều khó khăn, nhiều bản còn chưa có điện lưới. Học sinh chủ yếu là người dân tộc thiểu số người H’mông và người Thái. Gia đình đông con, cuộc sống vất vả, thu nhập chủ yếu dựa vào nương rẫy. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng học sinh chất lượng không đồng đều ở các điểm trường, tình trạng học sinh không theo kịp chương trình còn nhiều. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến chất lượng học sinh chưa đạt yêu cầu như vậy? Sau quá trình điều tra tìm hiểu tôi thấy việc học sinh học yếu do các nguyên nhân sau: 2.2.1. Về phía giáo viên: - Trong một số tiết dạy, giáo viên chỉ chú ý truyền đạt kiến thức trọng tâm cho cả lớp ( hoặc là chỉ chú trọng vào các em khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp ) mà ít quan tâm học sinh yếu kém có nắm bắt được kiến thức hay không. Hoặc là có quan tâm đến học sinh yếu nhưng chưa đúng mức, chưa đúng cách. Đặc biệt, hệ thống câu hỏi chưa gợi mở, chưa cụ thể; dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng; có những tiết học giáo viên còn nói lan man, giảng giải nhiều, chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm, câu hỏi còn mang tính khái quát. - Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, sách giáo khoa còn hạn chế, chưa khai thác hết tác dụng của đồ dùng dạy học, chưa xử lý hết các tình huống trong tiết dạy một cách phù hợp. - Việc tổ chức các hoạt động dạy học còn mang tính hình thức chưa phù hợp. Phương pháp giảng dạy của một số giáo viên còn máy móc, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm, theo đối tượng còn hạn chế. Giáo viên ít động viên tuyên dương kịp thời khi HS có biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ. - Một số ít giáo viên còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất lượng học tập của HS. Cá biệt có giáo viên tinh thần trách nhiệm chưa cao, tự thoả mãn, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích, không đánh giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy - Một số ít giáo viên do thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy hoặc chưa thật sự chịu khó, tận tuỵ với học sinh nên trong quá trình dạy học còn bỏ rơi một bộ phận học sinh chưa hoàn thàn. Do vậy chất lượng thường xuất hiện tình trạng phân cực rõ nét khoảng cách ngày càng xa, những học sinh chưa hoàn thành khó được bù đắp về kiến thức kĩ năng dẫn đến ngày càng yếu kém thêm, sức học ngày càng đuối, nguy cơ tái phát ngồi nhầm chỗ luôn ẩn chứa bùng phát. 2.2.2. Nội dung chương trình: Chương trình phổ thông mới có nhiều ưu điểm, xong yêu cầu cao và nặng. Mặt khác, chưa có một chương trình, giáo án nào có sẵn dạy riêng cho riêng đối tượng học sinh học yếu, cá biệt. Càng lên lớp trên lượng kiến thức thường nhiều, khó đòi hỏi sự tư duy trừu tượng cao hơn so với lớp dưới.Vì thế đẫn đến sự phân hóa học sinh, có nhiều học sinh học không theo được . 2.2.3. Về phía học sinh: - Đa số học sinh tiểu học khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền, dễ thích, chóng chán. Một số học sinh chưa coi việc học là chính, trong giờ học còn làm việc riêng không chú ý nghe giảng. Một bộ phận học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tậpvốn kiến thức cơ bản còn hạn chế. - Mặt khác do thói quen ỉ lại, dựa dẫm vào người khác, nên khi gặp bài toán, bài tập khó các em không chịu suy nghĩ để làm bài. Phần lớn học sinh còn quen với cách học đơn giản như ở các lớp dưới. Khả năng tư duy của một số bộ phận các em còn chậm trong khi thời lượng của một bài học là nhiều và khó. - Do các em đi hoc không đều, thường xuyên nghỉ học nên ảnh hưởng nhiều đến việc học 2.2.4. Về phía gia đình: Do đặc điểm học sinh chủ yếu là con em người dân tộc thiểu số, gia đình sinh nhiều con,quanh năm làm nương rẫy, cuộc sống khó khăn. Mặt khác do trình độ nhận thức của một số phụ huynh chưa cao,có nhiều hạn chế không có khả năng giúp các em học bài ở nhà. Nên đành phó mặc việc học hành của con em cho thầy cô dạy dỗ. Do trong gia đình có sự thay đổi lớn như: bố mẹ li dị, hay cãi vã đánh nhau, gia đình tan vỡ vv Làm cho trẻ bị thay đổi về tâm lí dẫn đến chán học Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi hay đi du lịch...) cha mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém! 2.2.5. Kết quả thực trạng: Đầu năm học 2016 - 2017 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2A – khu Táo. Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng toàn học sinh khối lớp 2( lớp 2A, 2B) - khu Táo ở 2 môn: Toán, Tiếng Việt. Và tôi thu được kết quả như sau: Môn Lớp Sĩ số Kết quả khảo sát Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Toán 2A 2B 16 16 2 2 8 8 6 6 Tiếng việt 2A 2B 16 16 3 3 8 8 5 5 2.3.Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1.Tìm hiểu đặc điểm tình hình các đối tượng học sinh chưa hoàn thành và nguyên nhân dẫn đến việc học sinh chưa hoàn thành * Tìm hiểu đặc điểm tình hình đối tượng học sinh chưa hoàn thành: Gv điều tra nắm bắt tình hình của các đối tượng học sinh học chưa hoàn thành một các cụ thể, rõ ràng để có biện pháp phụ hợp. Thường có hai loại đối tượng học sinh chưa hoàn thành: Đối tượng mở rộng và Đối tượng tập trung - Đối tượng mở rộng: Là đối tượng HS chỉ học kém trong một khoảng thời gian nhất định. Với sự giúp đỡ của GV thì những HS đó có khả năng học tốt lên và đạt yêu cầu - Đối tượng tập trung( Đối tượng chủ yếu): Là những HS học kém không có khả năng theo kịp kiến thức bài học, hoặc bị hạn chế ở một hay nhiều kĩ năng cơ bản, không có khả năng tự thực hiện yêu cầu bài học. Với đối tượng này, GV phải thường xuyên quan tâm, giúp đỡ và có biện pháp trong thời gian dài và xuyên suốt quá trình dạy học. GV cần xác định rõ HS bị thiếu kiến thức gì, bị hổng kiến thức ở đâu để có biện pháp khắc phục. * Nguyên nhân dẫn đến việc học sinh chưa hoàn thành : - Đa số các em là con nhà dân nghèo, là người dân tộc thiểu số. Bố mẹ quanh năm là nương rẫy, thường xuyên ở lại trong rẫy.Vì vậy, học sinh thường phải nghỉ học ở nhà trông em và đi làm nương. Có những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt: bố, mẹ mất sớm hoặc bị nghiện ngập, tù tội, phải ở với người thân, không được quan tâm nhiều, nhất là việc học. - Các em đều chưa có ý thức học tập một cách chủ động, còn quen dựa dẫm, ỉ lại. - Ngoài ra các em là con em vùng đặc biệt khó khăn, nên ngoài thời gian học trên lớp ở nhà các em còn phải giúp đỡ bố việc nhà. - Do trình độ của đa phần phụ huynh còn hạn chế nên không thể chỉ bảo việc học cho con, kg quan tâm đến việc học của con. Vì vậy mà đành phó mặc việc học của con cho thầy cô giáo ở trường . 2.3.2. Khảo sát phân loại đối tượng học sinh, tìm biện pháp để rèn luyện học sinh chưa hoàn thành * Khảo sát phân loại đối tượng học sinh: - Sau khi nhận lớp, GV tiến hành phân loại đối tượng học sinh. - Sau khi phân loại đối tượng học sinh trong lớp, tôi tiến hành sắp xếp bố trí lớp học cho phù hợp, cụ thể tôi xếp như sau: Vì trường học 2 buổi / ngày nên tôi sắp xếp buổi chính ghép một em học tốt ngồi với một em học kém, một em có học khá ngồi với một em có học trung bình, để các em có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau trong qua trình học tập. Buổi hai, tôi sắp xếp các em có học tốt và học khá ngồi một dãy.Tập trung những em có học kém và gần kém ngồi một dãy. Tôi giao nhiệm vụ học tập phù hợp với từng nhóm đối tượng. Để tôi có thời gian kèm cặp chỉ bảo thêm cho các em yếu những kiến thức mà các em còn thiếu và chưa rõ. - Tôi giao nhiều dạng bài tập cùng lại (phù hợp với đối tượng) để học sinh có thể khắc sâu kiến thức 2.3.3. Lập kế hoạch và dạy học đến từng đối tượng học sinh trong lớp. - Khi lập kế hoạch dạy học tôi luôn chú ý chuẩn bị một số câu hỏi gợi mở từ dễ đến khó để tất cả các em có thể tham gia học tập, xây dựng bài một cách tích cực. - Lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy được khả năng của từng học sinh. Mọi học sinh đựơc tham gia hoạt động học tập trong mọi giờ học. - Sau khi lập kế hoạch tôi tiến hành dạy học đến từng đối tượng học sinh trong mọi giờ học. Trong mỗi tiết học căn cứ vào trình độ của học sinh để giao nhiệm vụ học tập một cách vừa sức, tránh yêu cầu quá cao hoặc quá dễ, thông thường nếu bài tập không đòi hỏi sự tư duy nhiều tôi giao cho học sinh có học kém, nếu bài tập có yêu cầu khó hơn một chút tôi giao cho học sinh học tốt hơn. Để các em được thể hiện, được trả lời. Điều đó giúp học sinh thấy tự tin hơn trong khi học, các em sẽ thấy hứng thú, tự tin và chủ động khi tiếp cận kiến thức. - Trong mỗi tiết dạy, sau khi giảng bài mới xong, cho lớp làm bài tập vào vở, lúc này tôi dành thời gian đến từng học sinh học kém để xem các em có hiểu bài chưa và có làm được bài không. Nếu học sinh nào nắm chưa vững kiến thức, chưa vận dụng vào làm bài tập tôi sẽ hướng dẫn thêm cho các em, để các em có thể hiểu, nắm vững kiến thức của bài học. - Đến giờ báo cáo kết quả làm việc tôi tiếp tục quan tâm đến mọi đối tượng học sinh cụ thể: + Nếu bài tập dễ, đòi hỏi ít tư duy tôi cho các em học sinh kém, trung bình lên làm và trình bày. + Nếu bài tập khó đòi hỏi sự tư duy tôi dành cho các em học tốt. Như vậy sẽ phát huy được khả năng và sở trường của các em, giúp các em hứng thú học tập và học tập một cách tích cực hơn. - Do học sinh tiểu học còn có đặc điểm tâm lí dễ chán nản và thiếu tự tin khi bị phê bình quyết liệt. Chính vì vậy trong quá trình dạy học tôi luôn chú ý đến việc khuyến khích, động viên học sinh. Đối xử một cách công bằng với tất cả mọi học sinh trong lớp. Nếu có học sinh nào làm sai chỉ cần nhắc nhở một cách nhẹ nhàng và động viên các em lần sau cố gắng hơn nữa. 2.3.4. Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cho phù: Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học là khả năng tập trung chú ý chưa cao, ưa thích những điều mới lạ, dễ chán nản nếu duy trì một hoạt động nào đó quá dài. Chính vì vậy trong quá trình dạy học người giáo viên cần biết lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp, thường xuyên thay đổi các hình thức tổ chức dạy học trong mỗi tiết học. Sử dụng phối kết hợp các hình thức thi đua học tập giữa các cá nhân hay nhóm một cách phù hợp, có hiệu quả. Trong mỗi giờ học cần sử dụng phương pháp trò chơi học tập, cải tiến các bài tập ở sách giáo khoa, vở bài tập thành các dạng trò chơi giúp học sinh thấy hứng thú học tập và nắm kiến thức được tốt hơn. Ví dụ: Trong khi dạy học toán chúng ta có thể cải tiến các bài tập thành các dạng trò chơi như :Thi giải toán nhanh, giải ô chữ toán học. (chú ý hình thức trò chơi, các trò chơi cũng cần dành cho mọi đối tượng, khi chơi cũng cần gọi các đối tượng học sinh có trình độ ngang nhau. Tránh hiện tượng trò chơi chỉ giành cho học sinh học tốt). Chúng ta cũng có thể áp dụng trò chơi ở nhiều môn để gây hứng thú và giúp học sinh tiếp thu bài với tâm trạng vui vẻ, thoải mái . Ví dụ: Trong phân môn Luyện từ và câu, chúng ta cũng có thể tổ chức các trò chơi như: Ai nhanh ai đúng, hình thức tiếp sức để gắn từ đúng, hoặc trò chơi giải ô chữ tìm từ thuộc chủ điểm đã học. Dạng này dành cho các tiết mở rộng vốn từ Từ những trò chơi học tập như thế sẽ thu hút sự chú ý của các em, các em thấy mỗi tiết học thú vị, nắm bài nhanh, tránh được sự căng thẳng trong học tập. 2.3.5. Thường xuyên chấm chữa bài để nắm được mức độ hiểu bài và vận dụng vào trong bài làm của học sinh, ra đề khảo sát chất lượng học sinh để lấy kết quả đối chứng, rút kinh nghiệm. - Trong tất cả các môn học tôi thường xuyên chấm chữa bài cho học sinh từ 2-3 lần/tuần/ môn vừa đảm bảo quy định chấm chữa bài đồng thời cũng giúp tôi có điều kiện nắm bắt kịp thời những em học sinh nào nắm được bài, em nào chưa hiểu bài. - Đối với học sinh học yếu kém việc chấm chữa bài còn giúp tôi phát hiện xem các em làm bài sai ở đâu, để từ đó tìm nguyên nhân vì sao các em sai để từ đó kịp thời uốn nắn, sửa chữa cho các em vào các tiết học ở buổi hai. Qua việc chấm chữa bài thường xuyên đó cũng một phần giúp tôi đánh giá lại hiệu quả của quá trình giảng dạy của mình. Để từ đó có hướng điều chỉnh phương pháp cách dạy học của mình. - Với những biện pháp rèn luyện học sinh chưa hoàn thành: Trong quá trình giảng dạy cuối mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi kì tôi lại ra đề khảo sát các đối tượng học sinh trong lớp. Đó kiểm tra xem các biện pháp dạy học đó có đem lại hiệu quả so với cách dạy thông thường. Qua mỗi lần khảo sát cho thấy kết quả ngày càng tốt hơn giúp tôi vững tin hơn trong quá trình viết sáng kiến kinh nghiệm về các biện pháp rèn luyện học sinh chưa hoàn thành mà mình đã áp dụng. 2.3.6. Sử dụng đồ dùng hợp lí và hiệu quả. Tôi thường nghiên cứu và tìm cách làm đồ dùng sao cho mang lại hiệu quả cao nhất đối với mỗi tiết dạy. Thông qua đó giúp học sinh dễ hiểu và nắm vững kiến thức hơn. 2.3.7. Phát động phong trào học tập: “Đôi bạn cùng tiến” Ngoài việc dạy học, người giáo viên cũng cần quan tâm đến công tác chủ nhiệm quản lý lớp học. Bởi đây cũng là một phần việc rất quan trọng trong quá trình rèn luyện học sinh học yếu. Nếu làm tốt công tác chủ nhiệm lớp giáo viên có thể khuyến khích, phát động phong trào học tập giữ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_cua_hoc_sinh_chua.doc