SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập đọc
Chúng ta đang sống trong thế kỉ 21. Thế kỉ của khoa học, công nghệ, đặc biệt là thời kì bùng nổ công nghệ thông tin. Đòi hỏi con người phải có trình độ nhận thức, hiểu biết cao hơn để đáp ứng với sự phát triển đó.
Tại Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 đã khẳng định:
“ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [3]
Nghị quyết 29 khoá 11 của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phải phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo” [3]
Vậy nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo ra những con người mới có kiến thức, kĩ năng, phẩm chất đạo đức, năng động, sáng tạo để đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội.
Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Tiếng Việt là môn học giữ vị trí vô cùng quan trọng. Thông qua học môn Tiếng Việt, học sinh có được các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, giúp các em có khả năng giao tiếp và phát triển ngôn ngữ. Làm tiền đề cho việc học các môn học khác.
Môn Tiếng Việt có nhiều phân môn. Trong đó, phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rất quan trọng là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Nếu học tốt phân môn Tập đọc, nó sẽ giúp cho các em học tốt hơn các phân môn của bộ môn Tiếng Việt. Thông qua việc dạy và học phân môn Tập đọc còn góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, cung cấp cho những học sinh những kiến thức và những hiểu biết sơ giản về xã hội, thiên nhiên và con người. Như vậy phân môn Tập đọc được coi như môn khởi đầu để học tiếp các môn học khác và để tiếp thu các tri thức của nhân loại.
Trong khi đó ở trường Tiểu học việc dạy phân môn Tập đọc cho học sinh ở một số nơi hiện nay chưa đáp ứng được theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bậc học theo quy định trong công văn số 896/BGD & ĐT –GDTH ngày 13/02/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo như kỹ năng: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. [4]
MỤC LỤC Tên mục Nội dung Trang 1 1.1 1.2 1.3 1.4 2 2.1 2.2 2.3 2.4 3 Mở đầu Lí do chọn đề tài.. Mục đích nghiên cứu.............................................................. Đối tượng nghiên cứu............................................................. Phương pháp nghiên cứu......................................................... Nội dung sáng kiến kinh nghiệm............................................. Cơ sở lí luận............................................................................. Thực trạng và các vấn đề cần giải quyết.................................. Các giải pháp nhằm giúp HS học tốt phân môn Tập đọc. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với bản thân, với học sinh. ............................................... Kết luận, kiến nghị ................................................................. Một số hình ảnh minh hoạ tiết dạy thực nghiệm Tài liệu tham khảo.................................................................. Danh mục các đề tài SKKN đã được Hội đồng đánh giá XL cấp Phòng GD & ĐT, cấp Sở GD & ĐT. 2 2 3 3 3 3 3 6 8 16 17 20 21 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Chúng ta đang sống trong thế kỉ 21. Thế kỉ của khoa học, công nghệ, đặc biệt là thời kì bùng nổ công nghệ thông tin. Đòi hỏi con người phải có trình độ nhận thức, hiểu biết cao hơn để đáp ứng với sự phát triển đó. Tại Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 đã khẳng định: “ Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [3] Nghị quyết 29 khoá 11 của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phải phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo” [3] Vậy nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo ra những con người mới có kiến thức, kĩ năng, phẩm chất đạo đức, năng động, sáng tạo để đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội. Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Tiếng Việt là môn học giữ vị trí vô cùng quan trọng. Thông qua học môn Tiếng Việt, học sinh có được các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, giúp các em có khả năng giao tiếp và phát triển ngôn ngữ. Làm tiền đề cho việc học các môn học khác. Môn Tiếng Việt có nhiều phân môn. Trong đó, phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rất quan trọng là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Nếu học tốt phân môn Tập đọc, nó sẽ giúp cho các em học tốt hơn các phân môn của bộ môn Tiếng Việt. Thông qua việc dạy và học phân môn Tập đọc còn góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, cung cấp cho những học sinh những kiến thức và những hiểu biết sơ giản về xã hội, thiên nhiên và con người. Như vậy phân môn Tập đọc được coi như môn khởi đầu để học tiếp các môn học khác và để tiếp thu các tri thức của nhân loại. Trong khi đó ở trường Tiểu học việc dạy phân môn Tập đọc cho học sinh ở một số nơi hiện nay chưa đáp ứng được theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của bậc học theo quy định trong công văn số 896/BGD & ĐT –GDTH ngày 13/02/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo như kỹ năng: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. [4] Là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2 một vùng nông thôn của huyện Quảng Xương, tôi thấy vẫn còn nhiềư học sinh đọc còn chậm, ảnh hưởng phương ngữ rất lớn, phát âm sai các vần khó. Bản thân tôi luôn băn khoăn cần phải làm thế nào để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục qua việc dạy Tập đọc, cần phải có biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 như thế nào để đạt được hiệu quả như mong muốn, nhất là học sinh lớp 2C là lớp mà có nhiều học sinh có điều kiện gia đình khó khăn hơn so với 3 lớp còn lại của khối 2, nên các em ít được sự quan tâm của bố mẹ về học tập. Bởi vậy giáo viên phải cố gắng rất nhiều để đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường. Và thực hiện có hiệu quả kế hoạch 04 về khắc phục nói, viết Tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông trong các trường tiểu học, mầm non, TH CS trên địa bàn huyện Quảng Xương giai đoạn 2018-2020 tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập đọc”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Về phía giáo viên: tìm ra biện pháp giúp học sinh lớp2 có kĩ năng đọc đúng trong giờ Tập đọc, qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm ở mỗi học sinh, nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2. Về phía học sinh: các em có kĩ năng đọc đúng, làm chủ được tốc độ đọc; học sinh say mê, hứng thú khi học Tập đọc. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Các giải pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập đọc ở trường Tiểu học. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các văn bản, sách báo, tạp chí giáo dục có liên quan đến đề tài, sách giáo khoa, sách giáo viên; hệ thống hoá những vấn đề có liên quan đến phân môn Tập đọc. -Phương pháp điều tra, khảo sát : Thực trạng dạy tập đọc ở Tiểu học; khảo sát chất lượng học sinh; trao đổi với giáo viên, trực tiếp đôí thoại với học sinh lớp 2. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Trực tiếp dạy và dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn Tập đọc. - Phương pháp khảo sát thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận: 2.1.1. Đọc là gì ? Đọc là quá trình chuyển chữ viết sang lời nói có âm thanh và có ngữ điệu.[5] Ứng với hình thức đọc thành tiếng là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn nghĩa không có âm thanh - ứng với đọc thầm.[5] ( Sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học Tiếng Nga của MR.Lô- vốp). 2.1.2. Ý nghĩa của việc đọc Con người thật hạnh phúc khi biết đọc. Chúng ta biết phần lớn những tri thức, khái niệm của đời sống và những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm của thế hệ trước và cả của thời đương đại được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người khó có thể tiếp thu được nền văn minh của loài người, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc làm chủ xã hội đương đại. Không biết đọc, con người không được hưởng thụ những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm của nhân loại qua ngôn ngữ viết. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần . Từ đây con người mới tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức mối quan hệ tự nhiên, xã hội. Biết đọc, con người có khả năng giao tiếp được với thế giới bên trong của con người khác thông qua tác phẩm văn thơ, bút kí ...của họ. Không biết đọc, con người sẽ khó có điều kiện hưởng thụ giáo dục mà xã hội dành cho họ, khó có thể hình thành một nhân cách toàn diện. Đọc giúp các em học sinh chiếm lính được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực tới trình dộ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc . Đọc là một kĩ năng quan trọng hàng đầu của con người. Nhờ biết đọc con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Đó là một yêu cầu không thể thiếu được của một con người trong thời đại hiện nay. Biết đọc ngắt câu, đổi giọng cho đúng ngữ điệu vừa đảm bảo được diễn cảm, hấp dẫn người nghe, vừa đảm bảo đúng ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người ghe hiểu, nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngôn ngữ Tiếng Việt. Chính vì vậy “đọc” có ý nghĩa to lớn ở bậc tiểu học. Bước đầu trẻ học đọc, sau đó trẻ đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học các môn học khác, đọc tốt giúp các em có kĩ năng giao tiếp có giáo dục. Môn Tâp đọc ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, thể hiện ở bốn chức năng: nghe, nói, đọc, viết. Đọc không phải chỉ là công việc chuyển kí hiệu chữ viết thành âm thanh mà còn là quá trình nhận thức để có kĩ năng thông hiểu những gì mà mình đọc được. 2.1.3. Nhiệm vụ của dạy tập đọc lớp 2: [2] Phát triển kĩ năng đọc và nghe cho học sinh * Rèn kĩ năng đọc thành tiếng - Phát âm đúng - Đọc rõ ràng, liền mạch từng câu, đoạn, cả bài, biết ngắt nghỉ hơi hợp lí sau dấu câu, giữa các cụm từ, các phần trong bài tập đọc. - Cường độ đọc, tốc độ đọc vừa phải - Tốc độ đọc vừa phải, đạt yêu cầu khoảng 50 tiếng/phút * Rèn kĩ năng đọc thầm và hiểu nội dung Biết đọc không thành tiếng, mấp máy môi. Hiểu được nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh, nắm được nội dung của câu, đoạn hoặc bài đã đọc, trả lời được các câu hỏi ở cuối bài tập đọc, tập nhận xét một số nhân vật, hình ảnh, chi tiết trong bài đọc. * Rèn kĩ năng nghe nói - Nghe giáo viên đọc mẫu và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn, bài. - Nghe - hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy cô. - Nghe - hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn. - Biết cách trao đổi với các bạn trong nhóm học tập về bài đọc . - Biết cách trả lời các câu hỏi về bài đọc . * Rèn tư thế đọc Tư thế đứng đọc thoải mái, không gò ép, đứng thẳng, khoảng cách từ mắt cách sách giáo khoa khoảng 25- 30 cm . * Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống: Làm giàu và tích cực hoá vốn từ ngữ, vốn diễn đạt, bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống, hình thành một số kĩ năng phục vụ cho cuộc sống và việc học tập cảu bản thân ( như khai lí lịch đơn giản, đọc thời khóa biểu, ta và lập mục lục sách, nhận và gọi điện thoại...), phát triển một số thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp) *Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn trong sáng, lành mạnh, tình yêu cái đẹp, cái thiện, cách ứng xử đúng trong cuộc sống, từ đó các em say mê, hứng thú đọc sách và thêm yêu Tiếng Việt. Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với ông bà, cha mẹ, thầy cô; yêu trường lớp, giúp đỡ bạn bè, vị tha, nhân hậu . Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã giao tối thiểu. Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hình thành lòng ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình yêu Tiếng Việt. 2.1.4. Những yêu cầu cần đạt được sau khi học tập đọc lớp 2 - Kĩ năng đọc thành tiếng phát âm đúng rõ ràng các tiếng có vần khó, có phụ âm đầu, có dấu thanh dễ lẫn. - Đọc rõ ràng, mạch lạc, đảm bảo tốc độ theo quy định. - Ngắt nhịp đúng câu văn, câu thơ, đọc trơn và lưu loát bài tập đọc, biết phân biệt lời nhân vật trong bài tập đọc. - Kĩ năng đọc hiểu: Hiểu được nội dung ý nghĩa bài tập đọc. 2.1.5.Nội dung, chương trình phân môn Tập đọc lớp 2: Trong quá trình tìm hiểu sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, tôi nhận thấy rằng các bài tập đọc được phân bố vào từng tuần cùng với các phân môn khác. Các bài tập đọc được bố trí đầu mỗi tuần có vai trò làm cơ sở, chỗ dựa cho việc dạy các phân môn khác như: Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu...Mỗi tuần có 3 bài tập đọc song học sinh được học 2 bài còn 1 bài tự đọc thêm. Bài tập đọc đầu tuần học 2 tiết. Các bài tập đọc có đủ các thể loại: Văn bản văn học, văn xuôi, thơ và một số văn bản nước ngoài . Trung bình mỗi chủ điểm học trong 2 tuần. Mỗi bài tập đọc được các nhà viết sách lựa chọn nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến thức nhất định về nội dung của các bài tập đọc lớp 2 xoay quanh các 6 chủ điểm lớn: Nhà trường: 8 tuần - 24 tiết Gia đình: 6 tuần - 18 tiết Bạn trong nhà : 2 tuần - 6 tiết Thiên nhiên đất nước gồm 7 đơn vị: Bốn mùa, chim chóc, muông thú, sông biển, cây cối, Bác Hồ, nhân dân. Mỗi chủ điểm 2 tuần. Riêng chủ điểm Nhân dân 3 tuần. [1] Trong số các bài văn xuôi và thơ được đưa vào với tỉ lệ đồng đều: Văn xuôi – 48,4 % còn thơ là 51,6 %. Nôi dung các bài văn xuôi ngắn, dễ hiểu dễ đọc và gần gũi với cuộc sống xung quanh các em.Văn xuôi gồm nhiều loại, nhiều dạng bài như văn miêu tả, kể, vừa kể vừa tả hoặc có cả truyện ngắn, thể loại thơ cũng rất phong phú. Chủ yếu là thơ vần, thơ lục bát, thơ 4 chữ, 5 chữ. Trong đó thơ lục bát chiếm 39,6 %, Thơ 5 chữ 23 % còn lại là thơ tự do và ca dao. Những câu chuyện kể, những bài văn xuôi đều hướng tới mục đích giáo dục tính trung thực, đức vị tha, tình yêu lao động, tình đoàn kết, tương trợ, bảo vệ của công. Đưa dần các em đến với nhận thức về quan hệ giữa các em với nhà trường, thầy cô, bạn bè, ông bà, cha mẹ, rộng ra là sông núi, trời biển, tổ quốc, nhân dân, lãnh tụ. Từ đó hình thành dần trong các em ý thức cá nhân giữa cộng đồng, ý thức công dân. Đặc biệt mạch bài cổ tích, ngụ ngôn, truyện vui trong và ngoài nước được đưa vào dạy khá hấp dẫn, dí dỏm, sinh động, dễ hiểu, dễ nhớ đối với các em. Đó là sự tích các loài (Sự tích cây vú sữa) Hiện tượng thiên nhiên (Sơn Tinh- Thuỷ Tinh), nguồn gốc dân tộc (Chuyện quả bầu)[1]. Phần thơ và văn vần rất hấp dẫn vừa sức đọc mang nhịp điệu học mà vui, vui mà học. Những bài tập đọc rất gần gũi, gắn bó với cuộc sống xung quanh các em. Tạo cho các em có 1 niềm vui hứng thú đọc và tìm hiểu bài. Trong các bài tập đọc việc sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá ngắn gọn, dễ hiểu tạo nên ngôn ngữ. Vì vậy nhờ sự phân loại các dạng bài tập đọc đó góp phần giúp người giáo viên xác định được đặc trưng riêng của từng giọng điệu để hướng dẫn học sinh đọc tốt, đọc hay và nâng cao chất lượng cảm thụ cho học sinh bằng chính giọng đọc . 2.2. Thực trạng và các vấn đề cần giải quyết 2.2.1.Đặc điểm tình hình *Địa phương : - Quảng Nhân là một xã nghèo của huyện Quảng Xương với hơn 90 % làm nghề nông. Đời sống nhân dân hết sức hết sức khó khăn. Trình độ dân trí cũng tương đối thấp. Đường giao thông nhỏ hẹp. Chính những điều kiện khó khăn trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc đi lại, sinh hoạt và học tập của con em địa phương. *Nhà trường: - BGH nhà trường đều là những người có năng lực quản lí, lãnh đạo. Luôn quan tâm, chỉ đạo sâu sát tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên làm tốt nhiệm vụ được giao. - Đội ngũ giáo viên của nhà trường đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn, song hầu hết giáo viên đều ở xa trường, điều kiện đi lại vất vả, khó khăn. - Trường Tiểu học Quảng Nhân là một trường nằm xa khu vực trung tâm của huyện, là một trong những trường khó khăn của huyện Quảng Xương. Điều kiện cơ sở vật chất của trường còn nhiều thiếu thốn: chưa đủ phòng học cho học sinh, bàn ghế ngồi học chưa đúng quy cách, các thiết bị dạy học hiện đại ứng dụng công nghệ thông tin còn thiếu, mức độ sử dụng trang thiết bị, đồ dùng dạy học của giáo viên còn hạn chế. 2.2.2. Thực trạng dạy Tập đọc: * Về phía giáo viên: - Giáo viên mới chỉ chú ý luyện cho học sinh đọc đúng, đọc trơn mà chưa chú ý rèn đọc ngắt nghỉ hợp lí, đọc diễn cảm. - Trong giảng dạy đôi lúc còn thiếu đồ dùng dạy học, dụng cụ trực quan để giúp học sinh khắc sâu kiến thức nên chưa gây được sự chú ý, hứng thú cho học sinh. - Việc phân bố thời gian trong tiết tập đọc còn chưa hợp lý, chưa nắm được trọng tâm của tiết tập đọc. - Dạy chưa đảm bảo quy trình của tiết học. - Chưa quan tâm hợp lí tới từng đối tượng học sinh. - Sử dụng các biện pháp dạy học chưa thật sự linh hoạt trong việc phối kết hợp các phương pháp dạy học và thay đổi hình thức dạy học nên dẫn đến giờ học trầm và không có hiệu quả cao. - Nhiều giáo viên không đầu tư nhiều cho việc xây dựng kế hoạch bài dạy, nên các định hướng trong giờ học còn chung chung, mang nặng tính hình thức. *. Về phía học sinh: - Đặc điểm tình hình lớp: Tổng số học sinh lớp 2C (lớp thực nghiệm) : 28 em trong đó nam 19 em, nữ 9 em. - Đa số học sinh đều có bố mẹ làm nông nghiệp, một số ít em có bố mẹ là công nhân và buôn bán nhỏ như em : Hải Anh, Quỳnh Như, Hùng. Một số em điều kiện kinh tế gia đình học sinh có nhiều khó khăn như: Kim Chung, Phát, Đăng Duy. Bố mẹ hầu hết luôn bận công việc, một số em bố mẹ làm ăn xa, nên không có điều kiện quan tâm chăm sóc và quan tâm đến việc học của các em mà hầu như phó mặc cho nhà trường, như em Phát, Đăng Duy, Việt, Truyền. - Một số ít em có bố sa vào tệ nạn cờ bạc, nghiện ngập, mẹ thì làm ăn xa như em Bảo, Dũng, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện sinh hoạt, học tập của các em. - Sau thời gian nghỉ hè học sinh chưa được ôn luyện nên kĩ năng đọc chưa đạt yêu cầu - Đa số các em chưa hứng thú với môn học. Học sinh đọc nhanh chán, sức chú ý chưa cao, chưa tập trung, chỉ đọc khi cô yêu cầu, chưa tự giác đọc, khi bạn đọc không chú ý theo dõi. Một bài tập đọc chỉ đọc ít lượt nên khi tìm hiểu nội dung bài cũng khó khăn và không hứng thú trả lời câu hỏi tìm hiểu nội dung bài. - Còn một số học sinh có trí nhớ kém, chậm phát triển nên khi học xong là quên, không nhận được mặt chữ nên không đọc được như: em Hải, em Truyền - Do còn chưa mạnh dạn nên đọc phân biệt các lời của nhân vật trong bài chưa đạt yêu cầu, còn đọc với giọng đều đều. Như em Mai Anh, Ngân Khánh, Trâm. - Trong chương trình phân môn tập đọc có một số chủ đề lớn như: Bốn mùa, sông biển, nhân dânTrong đó có những bài tả cảnh vật, những từ ngữ mà ở địa phương các em chưa từng thấy, chưa từng nghe, chưa từng biết nên đòi hỏi các em tận dụng quá mức trí tưởng tượng non nớt của mình vào bài đọc, một số học sinh đọc bài còn chậm chưa lưu loát nên chưa hiểu được nội dung bài. -Học sinh còn ảnh hưởng phát âm tiếng địa phương nhiều. Học sinh hay đọc sai tiếng có phụ âm đầu là s/x, ch/tr; thanh ngã / thanh hỏi Đọc nhầm lẫn vần iêu thành iu, uôi thành ui ( Ví dụ: buổi chiều đọc thành bủi chìu; Vần ươi thành ưi ( Ví dụ: số mười đọc thành số mừi), vần ươu đọc thành ưu hoặc iêu ( ví dụ: rượu đọc thành riệu hoặc rựu. Vần in thành vần inh ( VD: số chín đọc thành số chính ) - Học sinh đọc ngắt nghỉ hơi không hợp lí, tốc độ đọc chưa đạt yêu cầu, chưa biết đọc diễn cảm. Từ đó các em gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập. Tốc độ đọc không đạt thì không thể nào thực hiện được yêu cầu đọc hiểu câu, hiểu văn bản ở phân môn Tập đọc, cũng như không thể hiểu yêu cầu trong khi học các môn học khác. Khả năng nghe viết chậm và không chính xác. *Kết quả khảo sát đọc đầu năm học – tháng 9/ 2018 kết quả như sau: Lớp thực nghiệm 2C: Tổng số HS Nội dung Số lượng Tỉ lệ % 28 em Đọc ngắc ngứ 8 em 28,6 % Đọc còn sai âm, vần nhiều 7 em 25 % Đọc liến thoắng 5 em 17,8 % Đọc đều đều không phù hợp nội dung bài 9 em 32,1 % Đọc chưa diễn cảm 25 em 89 % Lớp đối chứng 2 B: Tổng số HS Nội dung Số lượng Tỉ lệ % 28 em Đọc ngắc ngứ 7em 25 % Đọc còn sai âm, vần nhiều 6 em 21,4 % Đọc liến thoắng 6 em 21,4 % Đọc đều đều không phù hợp nội dung bài 8 em 28,5 % Đọc chưa diễn cảm 23 em 82,1 % Từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn nghiên cứu, đề ra một số biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2 tại trường tôi giảng dạy như sau: 2.3. Các giải pháp nhằm giúp HS học tốt phân môn Tập đọc - Để đạt được mục tiêu, yêu cầu môn học, học sinh phải trải qua một quá trình rèn luyện và phẻi có sự chỉ đạo, phối hợp giữa giáo viên với gia đình học sinh và giữa học sinh với nhau. Cụ thể là: Giải pháp 1: Phân loại học sinh: Đây là việc không kém phần quan trọng. Ở đây tôi phân học sinh thành 3 loại để rèn: - Loại 1: Đọc còn chậm, ngắc ngứ, đọc còn sai âm vần nhiều. - Loại 2: Đọc bình thường - Loại 3: Đọc tốt Cách rèn ba loại như sau: Đối với học sinh đọc còn chậm, ngắc ngứ, đọc còn sai âm vần nhiều: Tâm lí các em rất ngại đọc, nhất là các bài dài, vì thế không nên ép các em đọc nhiều. Đọc nối tiếp câu là hình thức tốt nhất để các em này rèn luyện. Tôi đã động viên các em đọc tốt từng câu mỗi bài, sau đó nâng dần lên đọc đọan. Như em Đăng Duy, em Phát, em Truyền, em Hiền. Đối với học sinh đọc bình thường: Tâm lí các em ngại thể hiện, các em nghĩ biết đọc là được. Tôi đã khuyến khích như khen, động viên để các em bạo dạn hơn. Ngoài ra cho các em tham gia đóng vai nhân vật trong giờ Tập đọc hoặc kể chuyện để lôi cuốn các em hứng thú đọc. Đối với học sinh đọc tốt: Tâm lí các em thích bộc lộ, tự tin. Tôi yêu cầu các em ở mức độ cao hơn như đọc diễn cảm, đọc theo vai. Lấy các em làm nhân tố Tích cực để phát triển thêm các vai khác. Tôi thường cho các em này đọc mẫu để học sinh khác noi theo. Tiêu biểu như em Khánh, Kim Chung, Hải Anh, Như Giải pháp 2: Rèn kĩ năng phát âm: Dạy
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_2_hoc_tot_phan_mon_t.doc