SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 10 nhận thức tốt hơn khi học tập môn Ngữ văn và hạn chế được những biểu hiện lệch chuẩn về ý thức, hành động, đạo đức… của các em trong xã hội hiện nay

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 10 nhận thức tốt hơn khi học tập môn Ngữ văn và hạn chế được những biểu hiện lệch chuẩn về ý thức, hành động, đạo đức… của các em trong xã hội hiện nay

 Văn học là một trong số bộ môn quan trọng bậc nhất đối với mọi cấp học. Việc dạy Văn ở cấp THPT, người giáo viên hằng ngày tiếp xúc với lứa tuổi học trò đang trong quá trình hình thành nhân cách nên phải rất hiểu, phải thật sự gần gũi, thân thiện và yêu mến trò mới có thể xây dựng được niềm tin cho các em, để các em biết lắng nghe, thấu hiểu và yêu thích hơn bộ môn này. Đó thực sự là một điều không mấy dễ dàng.

 Qua mỗi giờ học Văn, nhất là các tiết đọc – hiểu tác phẩm, người giáo viên cần phải giúp cho mỗi học sinh của mình từng bước chiếm lĩnh tác phẩm đó ở nhiều góc độ, giúp các em có những trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống thông qua mỗi cuộc đời, số phận, tâm tư tình cảm của từng nhân vật. Từ đó, giúp học sinh nhận thức được sâu sắc hơn về cuộc sống qua mỗi trang văn.

 Từ rất lâu, nghề giáo được người ta ví với nghề “Lái đò”. Những chuyến đò âm thầm chở từng lớp người, từng lớp học trò ngày ngày đến với bến bờ tri thức. Trên con đường đó, không phải lúc nào cũng được suôn sẻ, đôi khi là sóng dữ, là trở ngại, khó khăn, mệt mỏi, căng thẳng Thế nhưng, vì tình thương yêu bao la của chính mình như ngọn lửa ấm áp sưởi ấm trái tim đã giúp những người “Lái đò” vững tay chèo tiếp tục cầm lái. Mỗi lớp học sinh đi qua để lại cho những người thầy, người cô những ấn tượng khó phai mờ trong cuộc đời dạy học của mình.

 Nghề giáo là một nghề rất vất vả, đòi hỏi người giáo viên phải luôn gần gũi, nắm bắt hoàn cảnh để giúp các em vượt qua khó khăn, tích cực đến lớp. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải nắm bắt được năng lực của từng em để có hướng giảng dạy phù hợp như dạy phụ đạo cho học sinh yếu, kém, trung bình và bồi dưỡng học sinh khá để các em có cơ hội được mở rộng và nâng cao kiến thức chứ không dừng lại ở kiến thức cơ bản trong mỗi giờ học.

 

doc 14 trang thuychi01 4950
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 10 nhận thức tốt hơn khi học tập môn Ngữ văn và hạn chế được những biểu hiện lệch chuẩn về ý thức, hành động, đạo đức… của các em trong xã hội hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
	1. 1. Lý do chọn đề tài
	Văn học là một trong số bộ môn quan trọng bậc nhất đối với mọi cấp học. Việc dạy Văn ở cấp THPT, người giáo viên hằng ngày tiếp xúc với lứa tuổi học trò đang trong quá trình hình thành nhân cách nên phải rất hiểu, phải thật sự gần gũi, thân thiện và yêu mến trò mới có thể xây dựng được niềm tin cho các em, để các em biết lắng nghe, thấu hiểu và yêu thích hơn bộ môn này. Đó thực sự là một điều không mấy dễ dàng. 
	Qua mỗi giờ học Văn, nhất là các tiết đọc – hiểu tác phẩm, người giáo viên cần phải giúp cho mỗi học sinh của mình từng bước chiếm lĩnh tác phẩm đó ở nhiều góc độ, giúp các em có những trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống thông qua mỗi cuộc đời, số phận, tâm tư tình cảm của từng nhân vật. Từ đó, giúp học sinh nhận thức được sâu sắc hơn về cuộc sống qua mỗi trang văn.
	Từ rất lâu, nghề giáo được người ta ví với nghề “Lái đò”. Những chuyến đò âm thầm chở từng lớp người, từng lớp học trò ngày ngày đến với bến bờ tri thức. Trên con đường đó, không phải lúc nào cũng được suôn sẻ, đôi khi là sóng dữ, là trở ngại, khó khăn, mệt mỏi, căng thẳngThế nhưng, vì tình thương yêu bao la của chính mình như ngọn lửa ấm áp sưởi ấm trái tim đã giúp những người “Lái đò” vững tay chèo tiếp tục cầm lái. Mỗi lớp học sinh đi qua để lại cho những người thầy, người cô những ấn tượng khó phai mờ trong cuộc đời dạy học của mình.
	Nghề giáo là một nghề rất vất vả, đòi hỏi người giáo viên phải luôn gần gũi, nắm bắt hoàn cảnh để giúp các em vượt qua khó khăn, tích cực đến lớp. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải nắm bắt được năng lực của từng em để có hướng giảng dạy phù hợp như dạy phụ đạo cho học sinh yếu, kém, trung bình và bồi dưỡng học sinh khá để các em có cơ hội được mở rộng và nâng cao kiến thức chứ không dừng lại ở kiến thức cơ bản trong mỗi giờ học. 
	Tuy nhiên giáo dục không chỉ là giảng dạy cho trò những bài học trong sách vở, mà người thầy, người cô còn phải giáo dục, dạy dỗ cho các trò được thành người có nhân cách mai sau, có kĩ năng sống để vững tin bước vào cuộc đời rộng lớn hơn.
	Bất kì cha mẹ nào khi sinh con ra, cũng mong muốn con mình trưởng thành khỏe mạnh, có kĩ năng sống tốt và thành đạt trong đời. Đối với người giáo viên cũng vậy. Ai cũng muốn có trò ngoan, trò giỏi và thành đạt trên con đường sự nghiệp.
	Nhưng thực tế, trong xã hội hiện nay, các con trẻ dường như bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những cám dỗ tiêu cực ngay khi còn ít tuổi. Nhất là lứa tuổi ở giai đoạn là học sinh cấp 2 và cấp 3. Lối sống “ảo”, yêu đương sớm, nghiện game, lười biếng bỏ bê việc học, ham mê lô đề, ăn chơi đua đòi, trang điểm sặc sỡ, tô son điểm phấn, ăn mặc không phù hợp với lứa tuổi học trò, tham gia buôn bán online đã và đang trở thành một xu hướng nhất thời đối với một bộ phận không ít học sinh THPT và giới trẻ bây giờ. Nhiều học sinh lên lớp rất lười học Văn, ngại ghi chép, ít và thậm chí không đọc tác phẩm.
	Vì vậy, trong mỗi giờ Văn người giáo viên ngoài việc giúp học sinh tiếp thu được kiến thức còn phải giúp cho học trò của mình nhận thức được giá trị của bản thân, của cuộc sống, giúp các em ham mê đọc Văn, yêu Văn vì “Văn học là nhân học” để phần nào các em hạn chế được trước những cám dỗ tiêu cực của xã hội. Từ đó, các em sẽ chuyên tâm hơn trong học tập, rèn luyện và đạt kết quả như mong muốn trong các kì thi. 
	Bản thân tôi, là một giáo viên công tác và giảng dạy tại ngôi trường THPT Triệu Sơn 3 hơn 10 năm nay, tôi được trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy môn Ngữ văn của nhiều khóa học trò. Được chứng kiến, được giáo dục và dạy dỗ nhiều đối tượng học sinh: ngoan có, học sinh hư có, học sinh có hoàn cảnh, nhận thức, tâm lí đặc biệt cũng rất nhiều.
	Đó là điều mà tôi luôn trăn trở, suy tư và nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của người giáo viên trong giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói riêng và việc giáo dục về đạo đức, kĩ năng sống  cho học trò nói chung nhằm góp phần giúp các em hoàn thiện tốt nhân cách bản thân. Sau nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy được tầm ảnh hưởng rất lớn qua mỗi giờ học Văn đối với tâm lí, nhân cách của trò. Giúp học trò đam mê, yêu thích và học bộ môn này hiệu quả, hứng thú hơn một cách rõ nét và đặc biết giúp các em biết nhận thức được thế nào là đúng – sai, phải – trái, tốt – xấuđể các em tránh xa những lối sống tiêu cực của xã hội bây giờ đang thâm nhập vào lứa tuổi học trò. 
	Từ những kinh nghiệm của bản thân sau nhiều năm giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại trường THPT Triệu Sơn 3, tôi nhận thấy mỗi giáo viên bộ môn hãy luôn là một người giáo viên chủ nhiệm đối với các lớp mình dạy; hãy thực sự yêu thương, quan tâm và dạy dỗ, khích lệ đúng cách đối với trò qua mỗi tiết học cũng như ở những thời gian có thể để hiểu hơn tâm lí, hoàn cảnh, tính cách những ưu, những nhược điểm của trò. Có như vậy mới có thể tạo niềm tin và sự tác động sâu sắc đến sự nhận thức của các em trong vấn đề học tập, rèn luyện đạo đức nhân cách. 
	Tôi xin ghi lại những kinh nghiệm của bản thân qua sáng kiến: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 10 nhận thức tốt hơn khi học tập môn Ngữ văn và hạn chế được những biểu hiện lệch chuẩn về ý thức, hành động, đạo đức của các em trong xã hội hiện nay”
	1. 2. Mục đích nghiên cứu:
	Giúp học sinh chiếm lĩnh, cảm thụ được tác phẩm, giúp giờ dạy văn – học văn hiệu quả, hấp dẫn; giúp các em nhận thức sâu sắc hơn những cám dỗ tiêu cực đang thâm nhập vào đời sống, tâm lí, nhận thức, hành động của học sinh THPT trong xã hội hiện nay.
	1. 3. Đối tượng nghiên cứu
	Xây dựng đề tài này, tôi tập trung vào nghiên cứu một số biện pháp giúp học sinh lớp 10 nhận thức tốt hơn khi học tập môn Ngữ văn và hạn chế được những biểu hiện lệch chuẩn về ý thức, hành động, đạo đứccủa các em trong xã hội hiện nay.
	1. 4. Phương pháp nghiên cứu
	* Xây dựng cơ sở lý thuyết.
	* Thu thập và xử lý thông tin.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
	Trước đây cũng như hiện nay, tình trạng một bộ phận học sinh không thích học hoặc ngại học Văn vẫn tồn tại bởi nhiều lí do khác nhau. Nhưng phần lớn là do các em chưa thực sự tìm thấy hứng thú trong học tập môn Ngữ văn, chưa tìm thấy cái hay, cái đẹp của Văn học; cái rung động thẩm mĩ của nhà văn được gửi gắm lên trang viết, qua câu chữ Nhiều em đọc tác phẩm xong mà chẳng biết nhà văn muốn nói gì, vì các em không có năng lực cảm thụ tác phẩm, không chủ động tìm tòi để dần chiếm lĩnh tác phẩm văn chương. Do vậy, khi học những tác phẩm dài, khó các em thường chán ngán, ngại đọc, ngại ghi chép, ngại làm bài tập
	Nhiều học sinh cho rằng: Văn học xa vời cuộc sống, trong khi xã hội ngày càng phát triển văn hóa hình ngày một phong phú, đa dạng có khả năng hấp dẫn cao nên cuốn các học sinh vào những trò chơi trên điện thoại, máy tính, khiến học sinh xa rời việc học tập. 
	Việc học tập môn Ngữ văn cũng như học các môn khoa học khác, năng lực tư duy là rất cần thiết. Có khả năng tư duy tốt mới có khả năng phân tích tổng hợp tốt, mới có thể khám phá được những điều mới mẻ. Đọc tác phẩm Văn học cũng là một khám phá - khám phá cái hay, cái đẹp của nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.
	Muốn tư duy tốt phải có được một vốn ngôn ngữ phong phú. Vì ngôn ngữ là phương tiện để tư duy, để thể hiện cảm xúc, ý tưởng.
	Điều quan trọng, để học tốt môn Văn thì học sinh phải có một vốn hiểu biết về đời sống, con người, thiên nhiên phong phú. Nhà văn khi sáng tác các tác phẩm thực chất là đưa cuộc đời thực tế vào trong tác phẩm bằng một thế giới quan nghệ thuật, bằng những phương thức, phương tiện thể hiện theo đặc trưng loại hình nghệ thuật văn chương. Mọi chi tiết, hình ảnh nghệ thuật trong tác phẩm phải được giải thích bằng chính sự cảm nhận của mình thông qua những hiểu biết về đời sống.
	Vì vậy, theo tôi, trước hết người dạy Văn phải tạo được “môi trường văn học tích cực”. Nghĩa là, bằng mọi cách làm cho các em thấy được cái hay của Văn học, giúp các em chiếm lĩnh và cảm thụ tốt các tác phẩm văn chương nhất là những tác phẩm văn xuôi dài. Từ đó, rèn luyện cho các em thói quen tìm tòi, khám phá, thấy được giá trị cuộc sống, bản thân sau mỗi tác phẩm dần dần các em sẽ yêu thích và đam mê môn Văn hơn.
	2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	2. 2.1. Về phía người học
Do xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau, nên việc học môn Ngữ văn của mỗi đối tượng học sinh cũng khác. 
	Đối với hai lớp 10D6 và 10D7, đều là lớp cơ bản, phần nhiều gia đình làm nông nghiệp, điều kiện kinh tế khó khăn và nhiều hoàn cảnh đặc biệt. Nên đa phần chỉ xác định học để có tấm bằng cấp 3, sau đi làm chứ ít mơ ước cao hơn. Do vậy, việc đầu tư thời gian, công sức, sự quan tâm của phụ huynh đến con em mình cũng phần nào hạn chế. Vì vậy, nhiều em có tư tưởng học cầm chừng, đến lớp cho có, cho bố mẹ, thầy cô vui.
	Số học sinh chỉ học để có tấm bằng cấp 3, để đi xuất khẩu lao động xứ người kiếm thu nhập, đi làm các công ty hay đi học nghề hoặc chỉ đi học vì bố mẹ bắt buộc phần lớn rất lười học, lười đọc, lười ghi chép Đến lớp chỉ để cho có, cho vui, số học sinh này phần lớn học lực non, ham chơi, chữ viết không cẩn thận, thậm chí thiếu đồ dùng học tập rất nhiều mỗi khi đến lớp. Rất nhiều em có mặt trong lớp nhưng không chú ý học tập, thậm chí có tư tưởng nổi loạn Do vậy, giờ học các em cảm thấy mệt mỏi, nặng nề, không chú ý, không làm việc nên không hiểu bài. Dẫn đến chán học, sa vào các thú chơi khác tiêu cực, không phù hợp với tuổi học trò
	Phần lớn số học sinh lười học, học lực yếu, ham chơi rất ngại ghi bài và ngại làm vănsợ bị thầy cô giáo gọi lên bảng nhưng lại thích không bị thiếu điểm hoặc được điểm cao.
	Rất nhiều học sinh chỉ thích nghe giảng, “thích không phải ghi bài”, thậm chí nhiều em có suy nghĩ ngồi chờ đợi tiếng trống báo giờ ra chơi hoặc giờ tan học để được về, hoặc chờ thầy cô không chú ý để làm việc riêng(nói chuyện, sử dụng điện thoại thấm, chơi ca rô, nằm gục lên bàn nhắm trộm mắt ngủ, ăn quà vặt)
	Nhiều học sinh thích không khí giờ Văn thầy cô giáo vui vẻ, hoặc kể cho các em những câu chuyện bổ ích ; ghét thầy cô quá khắt khe, nghiêm khắc; thích thầy cô nhẹ nhàng quan tâm chỉ dạy khi không hiểu bài.
	Danh sách những học sinh cá biệt (về tính cách, nhận thức, hoàn cảnh gia đình, hành động) của 2 lớp 10D6 và 10D7
STT
Họ, tên học sinh
Lớp
Những biểu hiện cá biệt ban đầu
Học lực môn Văn
1
Nguyễn Thị Thu Hà
10D6
- Hoàn cảnh gia đình: mẹ và anh trai cả đi tù do nhà chứa gái mại dâm. Em ở với gia đình anh trai thứ.
- Bản thân: tự tin, nghị lực, hay trang điểm, sơn móng tay móng chân khi đi học; tham gia bán một số mặt hàng lứa tuổi học trò trên mạng nên thường xuyên mang điện thoại đến lớp; hay nghỉ học vô lí do; chơi thân với nhóm học sinh và thanh niên hay chơi bời, nghiện ngập ở nhà; yêu đương sớm; thường đi bộ đến trường vì gần.
- Học lực trung bình khá, chữ xấu, chưa chăm học, lười ghi chép bài
2
Lê Thị Lan Anh
10D6
- Gia đình: mẹ bán hàng tạp hóa ở nhà, bố đi làm xa ở Hà Nội, kinh tế gia đình cũng tạm hơn so với cuộc sống ở nông thôn.
- Bản thân: rất thẳng thắn và nóng tính; hay bỏ nhà đi khi bị cha mẹ mắng chửi; hay ăn quà vặt khi đi học; ăn nói trống không; hay trang điểm, sơn móng tay móng chân, nhuộm tóc khi đến lớp; yêu đương sớm; tính cách khá táo bạo nói năng nhiều khi thô tục; hay sử dụng điện thoại xem phim, bán hàng trên mạngnhưng cũng rất yếu đuối, tình cảm.
-Rất thông minh, nhận thức rất nhanh về đề bài khi giáo viên ra. Nhưng không chịu ghi chép, không học, đến lớp chủ yếu ăn quà, dùng điện thoại thấm, nói chuyện tự do.
3
Hà Thị Thùy Dung
10D6
- Gia đình: Kinh tế bình thường, bố đi làm xa, mẹ ở nhà.
- Bản thân: Thích ăn diện, hay nợ nần vì mua quần áo chịu, tính không thật thà nên bạn bè không thích chơi; yêu đương sớm; hay chụp hình ảnh không hợp tuổi học sinh đăng tải lên Facebook; hay trốn cha mẹ đi chơi với bạn trai; xinh gái; hay bỏ học vô lí do, đi xe máy điện đi học phần lớn không đội mũ bảo hiểm
- Chữ đẹp, học lực bình thường
4
Hà văn Thành
10D7
- Gia đình: Bố không làm gì chỉ ở nhà uống rượu nên hay chửi mắng vợ con, mẹ đi buôn bán chạy chợ, kinh tế bình thường.
- Bản thân: Ham điện tử, yêu đương sớm, hay tham gia đánh nhau để bảo vệ bạn. Nhưng sống rất tình cảm được bạn bè quý mến. 
- Học lực non, lười học, chữ xấu
5
Bùi Thị Huyền
10D6
- Gia đình: Bố nghiện ma túy, mẹ giáo viên mầm non, kinh tế khó khăn.
- Bản thân: đua đòi bạn bè trong ăn mặc, nhiều khi có suy nghĩ bất cần, tiêu cực. Không chăm học; đến lớp hay nằm gục lên bàn ủ rủ..
- Học lực non
	2. 2. 2. Về phía người dạy
	Việc dạy Văn vốn là bộ môn nghệ thuật, cần phải có một môi trường học tập thoải mái có sự hợp tác tốt từ cả hai phía người dạy – người học. Bản thân người dạy đam mê, say sưa tìm tòi, nghiên cứu bài để có phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh. Với mong muốn các em chú ý, say mê học tập. Nhưng với đủ các thành phần đối tượng học sinh: ngoan có, hư có, hoàn cảnh có giỏi có, lười biếng có, học yếu có đôi khi khiến cho việc dạy Văn cũng chịu nhiều áp lực, căng thẳng, mệt mỏi, nhiều lúc không tránh khỏi suy nghĩ buông xuôi khi học sinh không coi trọng bộ môn của mình.
	Đôi khi, việc đi dạy không chỉ đơn thuần là đi dạy mà còn có những áp lực về công tác hành chính, sổ sách các loại khiến cho giáo viên cũng bị hạn chế về thời gian trong việc đầu tư soạn bài công phu theo phương pháp dạy học hiện nay. Điều đó cũng phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng giờ dạy. 
	Hơn nữa, nhiều khi trong những lớp dạy không phải tất cả các em đều ngoan, đều học tốt, đều có hoàn cảnh gia đình tốt mà rất nhiều đối tượng. Không chỉ dạy chữ mà người dạy còn phải giáo dục, dạy cách sống, cách làm người cho các em, để các em hoàn thiện nhân cách, có kĩ năng sống tốt sau này bước vào đời. Vì vậy, một người giáo viên tâm huyết, hết lòng vì học trò bao giờ cũng nặng trăn trở suy tư, sẵn sàng vì học trò mà chịu những thiệt thòi riêng miễn sao cho học trò của mình tốt hơn trong nhận thức. Giáo viên chính là người “Lái đò” thầm lặng, đó là điều tôi chú ý quan tâm.
	2. 3. Các sáng kiến kinh nghiệm đã sử dụng để giải quyết vấn đề
	2. 3. 1. Những điều cần làm ban đầu đối với người giáo viên khi nhận lớp mình được phân công giảng dạy
	Tiết học đầu tiên, tôi giành một chút thời gian tìm hiểu về từng đối tượng học sinh lớp 10D6 thông qua bài viết của các em về những câu hỏi tôi nêu ra(học sinh sẽ về nhà viết đến buổi học hôm sau nạp lại cho cô). Bài viết này nhằm mục đích giúp tôi nắm được khái quát ban đầu về: tâm lí, năng lực, hoàn cảnh – thành viên gia đình, ước mơ, những ưu điểm, hạn chế, tính cách,  đối với từng đối tượng học sinh. Bài viết này tôi tha thiết muốn học trò nói ra những điều chân thành nhất, không hư cấu. Qua bài viết này, tôi có thể thấy được khả năng trình bày, chữ nghĩa, khả năng diễn đạt những điều vốn có và có thể gần gũi các em hơn ngay từ thời gian đầu nhận lớp. Và trong suốt thời gian giảng dạy, có thể sẽ đến thăm một số gia đình các em cá biệt trong lớp. Đó là mục tiêu tôi đề ra đối với bản thân mình dù không phải lớp mình chủ nhiệm. 
	2. 3. 2. Những yêu cầu đối với việc chuẩn bị cho một tiết học Văn
	2. 3. 2.1. Đối với người dạy 
	Bất cứ việc gì nếu có sự chuẩn bị tốt thì việc thực hiện sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Cụ thể, người dạy phải đọc kỹ tác phẩm trước khi lên lớp, phải nghiền ngẫm, tham khảo để tìm ra vẻ đẹp của tác phẩm ở cả phương diện nội dung và hình thức. Từ đó, mới thiết kế được bài dạy hợp lí, khoa học. Đồng thời phải xây dựng hệ thống câu hỏi đa dạng, phong phú về chủng loại:
	Có câu hỏi phát hiện, câu hỏi phân tích bình giá, câu hỏi mở rộng nâng cao
	Người dạy phải “ Lấy học trò làm trung tâm” và phải là người cố vấn, hướng dẫn học sinh để các em cùng sáng tạo với người dạy trong quá trình cảm thụ, chiếm lĩnh tác phẩm chứ không thể làm thay cho trò như trước.
	2. 3. 2. 2. Đối với người học
	Người dạy bằng mọi giá phải khuyến khích, yêu cầu học sinh đọc kỹ tác phẩm ở nhà, phải nắm được cốt truyện, hệ thống tên nhân vật và những chi tiết tiêu biểu(Đối với tác phẩm văn xuôi). Hiểu được nội dung của từng câu thơ. Đồng thời phải trả lời những câu hỏi trong sách giáo khoa – phần hướng dẫn học bài hoặc những câu hỏi giáo viên giao( ít nhất là về mặt tinh thần có học, có làm giáo viên nên động viên, khen ngợi kịp thời).
	Đến lớp bắt buộc phải lắng nghe và ghi chép bài thật đầy đủ, liên tục. Học sinh bắt buộc phải mang đầy đủ sách giáo khoa, vở ghi, vở soạn, phải có giấy nháp để nháp bài khi giáo viên ra câu hỏi, bài tập. 
	Tuyệt đối trong giờ học Văn không được mang các môn khác ra học, không được sử dụng điện thoại và khi được thầy cô gọi lên bảng, dù làm được hay không cũng phải có thái độ hợp tác vui vẻ để lên bảng làm.
	2. 3. 3. Đối với mỗi giờ học Văn chính khóa
	Người dạy phải tạo được không khí giờ học thoải mái ngay từ phút giây đầu khi bước vào lớp học. Đối với những học sinh cá biệt, lười học, lười ghi người dạy phải chú ý đầu tiên bằng cử chỉ gần gũi, thân thiện kể cả việc giám sát kiểm tra các em ghi chép, nháp bài. 
	Người dạy cần chú ý rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh (giáo viên có thể đọc mẫu một đoạn hoặc cho học sinh đọc tốt đọc bài, hoặc cho đọc phân vai để mọi đối tượng học sinh đều tham gia và chú ý hơn). Sau khi học sinh đọc xong giáo viên phải nhận xét ưu, nhược điểm trong giọng đọc để các em rút kinh nghiệm. Đặc biệt người giáo viên dạy văn phải có một giọng nói truyền cảm, một chút hài hước. Vì việc đọc đúng, đọc hay và một giọng nói truyền cảm sẽ là một thành công không nhỏ của giờ dạy văn. Trong quá trình các em đàm thoại với thầy cô cũng giúp các em rèn được kỹ năng nói, kỹ năng diễn đạt bằng miệng. 
	Đặc biệt kỹ năng quan trọng nhất cần rèn luyện cho học sinh trong giờ văn là kỹ năng cảm thụ tác phẩm. Muốn vậy, người dạy phải tạo được mối giao cảm nhịp nhàng giữa người dạy và người học, tạo được tâm thế đón đợi của học sinh để cùng với người dạy khám phá tác phẩm như một công trình nghệ thuật đẹp. Người dạy phải tạo được tình huống có vấn đề, đưa ra những câu hỏi đúng lúc, đúng chỗ nhằm hướng dẫn học sinh tư duy và từng bước chiếm lĩnh tác phẩm. Người dạy phải tạo ra được những cuộc đàm thoại tự nhiên, thoải mái, sâu sắc giữa thầy và trò, giúp học sinh từ thấp đến cao bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Như vậy giờ học sẽ không nhàm chán, nặng nề, tẻ nhạt, học trò sẽ hứng thú hơn khi thấy bài học thú vị.
	2. 3. 3. 1. Khi kiểm tra bài cũ 
	Sau mỗi tiết dạy, phần cũng cố kiến thức bao giờ tôi cũng cho câu hỏi hoặc bài tập về nhà và nhắc nhở học sinh chuẩn bị nội dung cho tiết học hôm sau. Vì vậy, trước khi vào bài mới tôi thường kiểm tra bài cũ và những chuẩn bị của trò về bài mới.
	Tôi thường gọi 03 học sinh lên bảng cùng một lúc, làm cùng một câu hỏi bằng cách viết bảng, với lượng thời gian quy định. Còn tôi tranh thủ kiểm tra vở soạn bài của các em. Sau khi các em làm xong tôi gọi học sinh dưới lớp nhận xét và cho điểm bạn. Để các em biết cách nhận xét đánh giá. Nếu học sinh không làm bài, không học bài tốt ở nhà cũng sẽ không biết nhận xét bài của bạn. Cùng một lúc tôi có thể đánh giá được nhiều học sinh về tinh thần, thái độ và năng lực học tập. Từ đó, sẽ biết cách giúp học sinh chủ động hơn trong học tập.
	Tôi có thể thay đổi hình thức kiểm tra bài cũ linh hoạt như: gọi học sinh lên thuyết trình hoặc viết bảng. Có thể kiểm tra đột xuất kiến thức bài cũ, vở ghi, vở soạn bài của học sinh bất kì không báo trước. Nếu học sinh không thuộc bài tôi nhắc nhở nhẹ, khích lệ em cố gắng chủ động hơn trong học tập. Làm tốt hoặc tự làm bài bằng khả năng dù chưa đạt mong muốn vẫn cho điểm khích lệ trò.
	2. 3. 3. 2. Khi vào bài mới 
	Nhất là tiết đọc – hiểu văn bản, tôi thường gọi những học sinh lười đọc, hoặc đọc chưa tốt đứng lên đọc bài, hoặc đọc phân vai. Sau khi các em đọc xong, tôi sẽ nhận xét về cách đọc của từng em để các em cảm thấy tự tin hơn, thích đọc hơn trong mỗi giờ học.
	Ngoài ra, có thể cho các em về nhà tập nhập vai diễn xuất một số hoạt cảnh trong tác phẩm, để vào tiết học các em thể hiện trước lớp: ví như nhập vai cô Tấm, Cô Cám, mụ dì ghẻ khi học truyện cổ tích Tấm Cám, truyện cười Tam đại con gà.
	Sau mỗi bài học có phần liên quan đến đời sống xã hội tôi thường lồng

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_10_nhan_thuc_tot_hon.doc
  • docBia.doc
  • docDanh muc de tai SKKN da duoc xep giai cua tac gia.doc
  • docMucluc.doc